Nguyên Hậu
Sau những hành trình về miền Tây tôi lại có cảm giác mình đang trôi bồng
bềnh giữa quên và nhớ, giữa xa và gần, giữa kỷ niệm và hiện tại. Có thể có vài
nơi để lại trong mình một ấn tượng sâu đậm nhưng điều đó có lý do không phải bởi cảnh
đẹp. Tôi bị ám ảnh bởi cái day dứt đợi chờ của những con người xa tôi lắm nhưng
cứ như thật gần. Bắt đầu một chuyến đi luôn là niềm chờ vọng, chuẩn bị sẽ về nơi
mình yêu thích, để đắm lòng sau nụ cười của những tâm hồn phóng khoáng, hiền hòa. Bởi lẽ còn nhiều lắm
những điều mà những tác giả đồng bằng dù có cố diễn tả cũng không nói hết được trong những vần thơ của mình.
Thơ đồng bằng không hẳn đã hay với nhiều người nhưng với tôi, nó hay và
đẹp như tình thương của một đứa con với người mẹ của mình. Nhận xét đó có lẽ
hơi phiến diện nhưng đó là tất cả những gì mà đồng bằng mang lại cho tôi hay
bất cứ ai từng vương hơi thở đồng bằng. Về miền Tây với tôi không giống với
việc đi đến những miền đất khác, tôi vừa có cái tự do, vừa có phần không tự do.
Tự do vì những lý do rất riêng, bởi tấm lòng những người đồng bằng hiền lành
chất phác, họ khiến tôi thấy mình giống như một con cá được vẫy vùng trong cái
ao quen thuộc. Chất vị đồng bằng không hề cao xa, không kiêu sa khó tính đến
mức khó gần. Hương vị đồng bằng rất dễ nhận ra với những ai chịu chấp nhận
những thiếu thốn của nó. Với tôi đồng bằng không nghèo, không thiếu gì hết mà
trái lại rất giàu là khác. Người ta giàu có bởi những thứ không phải được cân
đong bằng tiền bạc, vật chất mà là sự phong phú trong nội tâm con người. Người
đồng bằng không thiếu tình, không nghèo nghĩa, cũng không nghèo về vật chất - cái
vật chất phải vật vã tạo dựng mà là cái khí chất trời ban. Có lẽ vì vậy mà
những chuyến xe về đồng bằng cũng trở nên ung dung, rộng mở, cứ như ngồi trên
những chuyến xe đó là không bao giờ có gì xảy ra hết, là an tâm về với nơi mình
yêu thương, dẫu đó không phải là quê hương, nguồn cội. Hai tiếng miền Tây luôn
sức hấp dẫn với tôi, một cô bé ấp ủ trong lòng một bầu tình cảm nồng nàn với
ký ức miền quê. Về miền Tây tôi thấy mình được bao bọc trong vầng sáng của tình cảm đó,
tôi thấy mình yêu thương và được yêu thương, không giống với sự bon chen, xô bồ
chốn thị thành, nơi mà khó khăn lắm con người mới tìm được sự cảm thông trong
nhau. Ước gì miền Tây cứ mãi là miền Tây như thế trong tôi. Tôi rất sợ một ngày
nào đó trước lực đẩy của sự phát triển về vật chất, những giá trị kia dù muốn
hay không cũng méo mó đi ít nhiều.
Thơ đồng bằng nhiều người nói là “sến”, là quá mềm mượt, dễ dãi, do đó
không hay. Nhưng sao tôi lại thấy yêu lắm cái mượt mà, giản dị đến gần như là tự
nhiên đó. Tôi muốn thơ đồng bằng cứ mãi là thơ đồng bằng, đừng như cô gái quê ra
chợ tỉnh rồi thấy món quà nào cũng đẹp, trang sức nào cũng lạ và sang mà mang
hết vào mình. Tôi muốn các nhà thơ đồng bằng cứ sống bằng cái chất thực trong
nội tâm của mình, không cần cao giọng bày giãi hay học đòi thế nọ thế kia. Đó
chính là lý do vì sao tôi thích và cảm nhanh cái hồn của các nhà thơ đồng bằng
đến vậy. Thơ hay không phải cứ có những từ ngữ lạ cho thật hiện đại nhưng ngật
ngưỡng lạc giọng trong cái âm điệu chung của khúc vọng đồng bằng. Câu vọng cổ
mãi là câu vọng cổ, không phải cứ chuyển thành rap hay rock thì mới bắt nhịp
hiện đại, mới hay!
Tôi không biết người ta lấy chuẩn gì để định giá cho thơ. Với tôi, miền
đất nào hồn thơ đó. Không ai lại thắc mắc sao ngày xưa những câu thơ như Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử mà ngày nay không có? Có ai dám nói mình có thể sống
lại trong thời đại đó để làm ra những câu thơ như vậy chăng? Ở đây không phải
là “sến” hay hiện đại mà quan trọng là chứa đựng trong đó cái thần của câu thơ,
của hồn thơ. Mà cái thần đó do nhiều yếu tố hợp thành chứ không riêng gì một thành
tố kỹ thuật nào. Không thể đổ lỗi cho tác giả không có trình độ, không biết
sáng tạo, không thể nói người sáng tác không biết bắt lấy những khoảnh khắc đẹp
của cuộc sống để mang vào thơ. Cũng không thể nói thơ không có cái hơi thở của
thời đại. Một câu thơ hay phải hay từ trong ra và cả bên ngoài vô, nghĩa là tự
trong hồn cốt nó phải có một cái gì linh thiêng để có thể đánh động tâm hồn
người đọc. Bước vào thế giới văn chương như bước vô một cái miếu thờ, mà ông
thần không đâu khác là cái hồn của câu thơ, là bút lực của thi nhân hòa quyện
vào những yếu tố của hình thức. Không thể bảo Nguyễn Bính viết khác đi với chất
và tạng thơ ông. Cũng không thể bảo một hồn thơ với chất điệu trí thức tiểu tư
sản như Xuân Diệu có thể viết những vần thơ mộc mạc như Nguyễn Bính. Bởi vì cùng
một chất liệu quê hương nhưng trong cảm nhận của một người thành thị sẽ
khác với người ở nông thôn, mà phần đó lại được lý giải ở gốc độ địa văn hóa.
Tôi quý những nhà thơ đồng bằng, vì cho dù vật có đổi, sao có dời họ
vẫn sống thật hồn nhiên nhưng vô cùng mãnh liệt với văn chương bằng tất cả tâm
hồn mình. Thơ đồng bằng êm ả, mượt mà và có sức lay động như những làn điệu
vọng cổ, có người thích, có người lại bảo … “khó tiếp thu”. Dù vậy tôi vẫn mong
đồng bằng sẽ mãi là đồng bằng, nhé, đồng bằng ơi!