Nguyên Hậu
Đã qua lâu lắm cái
thời sinh viên chen chân ở Sài Gòn, Nghĩa giờ đã là một thầy giáo thực thụ của
một ngôi trường có tiếng ở Bình Dương, cũng sắp sửa lập gia đình, vậy mà mỗi năm
đến ngày 20/11 cậu lại tất tả đón xe về quê, dù có bận bịu thế nào. Có năm ngày
này không rơi vào chủ nhật, kẹt lịch dạy ở trường thì cứ ngày chủ nhật trước đó
mấy ngày, thể nào cậu cũng đón xe về quê cho được. Quê Nghĩa tận An Giang, nếu
đi xe máy từ Bình Dương mất ít nhất 5 tiếng đồng hồ, còn đi xe đò, dễ chừng phải
hơn 6 tiếng. Bạn bè quen biết ai cũng khen hắn “chạy khỏe” và “làm siêng”. Mấy
đứa bạn thời phổ thông, trừ đứa nào học gần nhà hoặc quanh quẩn ở quê thì ngày
này thể nào cũng sẽ họp lớp, rủ nhau đến nhà những thầy cô dạy hồi đó, trước là
thăm hỏi, sau là những cuộc nhậu rề rà, vui vẻ cả ngày. Nghĩa có mấy đứa bạn, hồi
trước không thi đậu đại học, vẫn ở lại dưới quê, năm nào thấy cậu về cũng cảm động.
Có đứa vui tính hay ghẹo cậu bằng mấy câu như “thằng này siêng dữ”, vậy mà ai
cũng quý, cũng thương.
Tôi gặp và quen
Nghĩa ở Sài Gòn, hồi còn là sinh viên. Mặc dù Nghĩa học sau tôi một khóa nhưng
trong cung cách nói chuyện, nhiều lúc tôi thấy cậu như một ông già (nói đúng ra
là có cung cách của một thầy giáo), ăn nói chững chạc, ẩn chứa nội tâm và bao
giờ cũng buồn buồn. Hồi đó do có trao đổi nghiên cứu, lại có chút quan tâm nên
mọi hành tung của Nghĩa tôi đều nắm. Mỗi năm, trừ dịp hè, tết và những kỳ lễ dài
ngày, tôi để ý hễ vào khoảng sau dịp 20.11 vài ngày, khi đi ngang nhà trọ, lúc nào
Nghĩa cũng gởi cho tôi mấy bịch bánh kẹp (một loại bánh quen thuộc của người miền
Tây, không rõ làm bằng nguyên liệu gì nhưng tôi biết có nước cốt dừa và thơm
thoang thoảng mùi sầu riêng). Những lúc đó tôi biết Nghĩa vừa từ dưới quê lên.
Một ngày nọ, nhân
lúc hai chị em hẹn ngồi ăn ốc, tôi đặt một câu hỏi có ý trêu cậu:
-
Về thăm thầy cô hay có hẹn với cô nào ở dưới?
Nghĩa xem tôi là
người chị thân thiết, cậu tỏ ra buồn buồn, ngồi trầm ngâm hồi lâu, rồi kể.
Ngày trước nhà
Nghĩa có bốn người, cha mẹ, cậu và một đứa em gái. Nhà ngoài sáu công ruộng chuyên trồng lúa, cha mẹ có nuôi thêm mấy
con bò giống. Chuồng bò đặt ngoài đồng, đêm nào cha cậu cũng ra đó ngủ để canh
bò. Một buổi sáng, cậu mang cơm ra đồng thì không thấy cha thức dậy nữa. Cha cậu
mắc sương khuya, trúng gió, chết một mình không kịp trối lại mẹ con Nghĩa câu
nào. Lúc đó Nghĩa học lớp sáu, em gái cậu học lớp một. Từ đó cậu trở nên tháo
vác hơn, hàng ngày phải phụ mẹ làm thay những phần việc ngày trước cha cậu làm.
Nhờ vậy mà nhìn Nghĩa to, khỏe, trưởng thành hơn những đứa cùng tuổi, và cũng
vì vậy mà Nghĩa có vẻ lầm lì hơn.
Mỗi ngày Nghĩa đi
học một buổi, còn một buổi về phụ mẹ việc nhà, việc đồng và thay cha chăm sóc mấy
con bò. Có những đêm canh bò, không ngủ được, cậu ngồi ngắm trăng, ngắm đồng, thổi
sáo và làm thơ.
Không biết do có
sẵn tâm hồn văn chương hay máu lãng tử mà những bài thơ Nghĩa làm, bài nào cũng
đậm đà, man mác buồn và có tình vị quê hương. Năm lên lớp bảy, Nghĩa được học một
ông thầy dạy Văn. Trong lớp, cậu vẫn là đứa học trò bình thường, tuy nhiên nếu để ý kỹ sẽ thấy có chút tự ti, mặc cảm. Cậu ít nói chuyện, chỉ bày tỏ cảm xúc trong những
bài tập làm văn. Nghĩa kể, trong một lần làm bài, khi phân tích nhân vật bé Thu
trong truyện Chiếc lược ngà của nhà văn
Nguyễn Quang Sáng, do vết sẹo trên mặt mà Thu không nhận ông Sáu là cha. Lời phân
tích tuy bám vào tác phẩm nhưng dường như cậu đã mang hết tất cả tâm tình đặt vào
nỗi khổ tâm của nhân vật ông Sáu, đồng thời thương cảm cho sự thiếu vắng tình
cha của bé Thu. Bài văn đó cậu được thầy giáo cho điểm cao nhất lớp. Bạn bè ai
cũng ngưỡng mộ nhưng không hiểu tại sao cậu lại có sự vượt trội trong bài viết đó.
Cũng có đứa nhận ra nên đã kể lại với thầy.
Một buổi chiều
sau khi tan học, trên đường về nhà, Nghĩa thấy thầy đứng chờ ở đằng xa. Đợi Nghĩa
tới, thầy kêu cậu ghé vào một quán nước ven đường để nói chuyện. Tuy đã quen với
giọng giảng bài của thầy trên lớp nhưng chiều hôm đó Nghĩa bỗng thấy giọng thầy
êm ấm lạ. Thầy đã ngoài 40, đã có gia đình và 2 người con. Trong cuộc nói chuyện,
thầy đã xưng “thầy” và gọi Nghĩa bằng “con”. Lúc đó trong lòng cậu trào dâng một
cảm xúc rất lạ. Lâu lắm rồi cậu không được nghe tiếng gọi ấm áp đó. Không một
người đàn ông nào ngoài cha gọi cậu bằng tiếng gọi thân tình đó. Rồi cậu kể cho
thầy nghe hoàn cảnh gia đình, về sự ra đi của cha. Nhưng không giống những lần
khác, trong cậu không có cảm giác mặc cảm mà thay vào đó là cảm giác được chia
sẻ và tin cậy. Đối diện Nghĩa lúc này là thầy, nhưng bờ vai ấy, ánh mắt ấy làm
cậu khao khát được tựa vào bằng tình thương của một đứa con với cha của mình.
Sau buổi chiều ấy,
nỗi buồn trong lòng Nghĩa vơi đi phần nào. Ngày ngày vẫn một buổi đi học, một
buổi ở nhà làm việc gia đình nhưng trong cậu đã có thêm động lực. Cậu cố gắng học
đều tất cả các môn nhưng thật sự về khả năng văn chương lại có phần trội hơn.
Ngoài những bài tập làm văn ở lớp, cậu bắt đầu tập tành sáng tác, những bài thơ
ngô ngê, có ngắn có dài, và thỉnh thoảng lại gởi cho thầy.
Hết cấp hai, lên
cấp ba, Nghĩa được sang trường mới học. Nhưng không biết vô tình hay trời đất sắp
đặt, cậu gặp lại thầy trong ngôi trường mới. Do có bằng đại học, thầy được chuyển
lên dạy cấp ba. Bạn bè Nghĩa, có đứa được học lại thầy cũ vui mừng hớn hở, nhưng
với cậu đó là một điều có ý nghĩa đặc biệt.
Lên cấp ba, nhà
trường bắt đầu lập đội tuyển ở tất cả các môn để dự thi học sinh giỏi. Không chút
do dự, cậu đăng ký vào đội tuyển Văn. Nhưng vì kết quả học tập của cậu tốt ở tất
cả các môn, đặc biệt là các môn tự nhiên nên không ít giáo viên muốn cậu gia nhập
vào đội tuyển của mình. Lúc đó Nghĩa đã phân vân giữa môn Văn và môn Toán. Mọi
người ai cũng ngạc nhiên, không hiểu sao hai môn có vẻ đối lập và chẳng ăn nhập
nhau như vậy mà cậu có thể học giỏi cả hai được. Thật ra với tư duy nhạy bén, cậu
học các môn tự nhiên rất tốt, nhưng trong thâm tâm, cậu vẫn thấy mình gắn bó đặc
biệt với môn Văn. Có những chiều ra đồng giữ bò, thơ thẩn với mây trời, cậu thấy
tâm hồn mình thật thoải mái. Cậu thấy yêu rất nhiều ngôi làng mình đang sống, yêu
những cánh đồng quanh năm cho ra hạt lúa nuôi sống bà con dân làng. Và đặc biệt
hơn, cậu luôn ấn tượng với mùi của đất, mùi rơm rạ thoang thoảng và mùi khói đốt
đồng sau mỗi mùa gặt. Những bài thơ “con cóc” thời cấp hai có lẽ cũng từ những
cảm xúc đó mà ra. Với cậu, văn chương là nơi gửi gắm tâm hồn mình, là nơi thể
hiện niềm vui, nỗi buồn, và hơn cả văn chương giúp cậu thấy yêu quê mình hơn. Vậy
mà đúng lúc đó chính thầy đã khuyên Nghĩa nên vào đội tuyển học sinh giỏi môn Toán.
Điều này làm cậu vô cùng bất ngờ. Lẽ ra thầy phải ủng hộ cậu thi môn Văn chứ. Vì
nếu vào đội tuyển Văn, cậu sẽ được thầy tiếp tục hướng dẫn và bồi dưỡng. Cậu sẽ
có điều kiện được ở gần thầy, chia sẻ niềm vui nỗi buồn với thầy. Vậy mà thầy đã
khuyên Nghĩa điều ngược lại. Lúc đó trong lòng cậu thấy giận thầy lắm.
Rồi Nghĩa cũng
miễn cưỡng vào đội tuyển Toán, tham gia lớp bồi dưỡng và đi thi. Kết quả, cậu
trượt. Ai cũng ngạc nhiên vì vốn dĩ Nghĩa là đứa có triển vọng nhất đội tuyển,
là niềm hy vọng của bao nhiêu thầy cô trong trường. Vậy mà kỳ thi năm đó Nghĩa
không mang giải nào về cho trường, trong khi một đứa bạn khác trong lớp vốn không
được đánh giá cao lại đạt giải. Mấy đứa bạn thân,
đứa nào cũng thắc mắc, và nghĩ rằng có lẽ hôm đó Nghĩa bệnh nên làm bài không tốt.
Sau đợt thi, ai nấy đều thấy Nghĩa buồn nên cũng không dám hỏi thêm, chỉ biết động
viên cậu cố gắng. Vậy mà có một người biết lý do, đó là thầy.
Cũng trong năm đó,
khi làm hồ sơ dự thi Đại học, Nghĩa nộp đơn vào hai trường, một là trường Đại học
Bách Khoa, một là ngành Ngữ Văn trường Đại học Sư Phạm. Thì ra từ lâu Nghĩa đã ấp
ủ hình ảnh một thầy giáo dạy Văn như thầy và quyết tâm thực hiện điều đó. Còn bộ
hồ sơ nộp vào trường Đại học Bách Khoa chỉ là theo tư vấn của các thầy cô trong
trường. Mọi người đều hy vọng Nghĩa sẽ đậu và mang danh dự về cho trường. Cuối
cùng, tuy đã làm được điều đó, nhưng cậu đã có sẵn sự lựa chọn cho riêng mình.
Hết bốn năm đại
học dưới mái trường Sư phạm, năm đầu tiên sau khi ra trường, cậu xin về dạy tại
một ngôi trường ở Bình Dương vì có người chị bà con cũng lập nghiệp ở đây. Đúng
vào ngày 20/11, cậu đón chuyến xe sớm nhất từ bến xe miền Đông về An Giang, tới
nhà đã gần mười hai giờ trưa. Chiều hôm đó Nghĩa sang nhà thầy. Cây ổi trước nhà
thầy năm nào nay đang vào mùa ra quả. Cậu nhớ về mùa ổi năm cách đây gần mười năm,
khi còn là một cậu bé cấp hai, chiều chiều, mỗi khi có bài viết nào hay, Nghĩa
đều mang qua cho thầy. Lần nào ra về trong tay cũng cắp theo một rổ ổi xá lỵ thơm
lừng. Cây ổi giờ đã già, tán lá cao hơn nhưng mỗi năm đến mùa này nó đều trổ bông
rồi ra quả, gió thoảng đưa mùi hương. Bao năm theo học trên thành phố cậu vẫn
không thể nào quên mùi hương ấy. Mỗi khi có ai đó đẩy xe ổi qua trước cổng trường,
Nghĩa đều chạy ra mua vài trái, nhưng sao nó không thơm và ngọt như những quả ổi
của thầy.
Gặp lại thầy,
trong lòng Nghĩa xôn xao bao cảm xúc lạ. Dáng thầy vẫn như ngày nào, chỉ có điều
tóc bạc nhiều hơn, sự đi lại có phần chậm rãi. Duy có một thứ không bao giờ
thay đổi, đó là giọng nói, vẫn cái giọng hiền từ, ấm áp như ngày nào. Bốn năm
trời trên giảng đường Đại học, tuy rất muốn về thăm thầy nhưng có gì đó mâu thuẫn
khiến cậu không dứt khoát. Nghĩa quyết tâm
thực hiện bằng được điều mình mơ ước trước khi về gặp thầy, tìm ra nguyên nhân
ngày xưa thầy từ chối cậu. 20/11 năm ấy cũng là bước ngoặc đầu tiên đánh dấu
Nghĩa bước chân vào nghề giáo. Hai mươi mấy tuổi đầu, nhưng khi đứng trước mặt
thầy, Nghĩa thấy mình như bé lại. Bỗng chốc Nghĩa thấy mình trở lại hình ảnh cậu
trò nhỏ cách đây mười năm. Cậu học trò ấy tuy nội tâm nhưng tinh nghịch và cũng
dễ dỗi hờn. Vậy nên sau mấy câu chào hỏi vui vẻ, Nghĩa bỗng lặng im, gương mặt
thoáng buồn. Những biến động trong lòng học trò thầy hiểu rất rõ, tuy nhiên người
vẫn ngồi lặng. Chờ đến khi Nghĩa quay lại, cất tiếng hỏi “Sao hồi đó thầy không
muốn nhận con vào đội tuyển?”, thầy mới nhẹ nhàng, nhấp ngụm nước trà, hướng mắt
nhìn xa xăm. Nhìn thấy thầy lúc đó, tự dưng cậu thấy như mình có lỗi. Sao một đứa
như mình có thể trách thầy, có thể hỏi thầy như thế. Nhìn thầy một lúc, cậu
xoay mặt ra cánh đồng trước mặt, nhìn xa xăm. Hai thầy trò lúc này trong tư thế
song song nhau, cùng nhìn về một hướng. Tuy cả hai không nói lời nào nhưng dường
như đó chính là lúc sự giao cảm lan tỏa. Qua cử chỉ, dường như cậu đã hiểu ra điều
gì. Quay đầu lại nhìn thầy, không hiểu sao, Nghĩa rơi nước mắt. Giọt nước mắt cậu
nuốt ngược vào trong bấy lâu, sau cái ngày thầy khuyên hãy đi thi môn Toán nay
mới được tuôn ra. Trong thâm tâm, cậu giận vì thầy đã bỏ rơi cậu, là thầy không
muốn làm chỗ dựa cho tâm hồn cậu nên mới dứt khoát, không nhận cậu làm đệ tử. Kể
từ ngày hôm đó, lòng cậu trống vắng biết bao. Một sự thiếu thốn tình cha đã trổi
dậy, cậu lại thấy mình mặc cảm, bơ vơ. Lòng cậu như vừa đánh mất một cái gì đó,
tuy chỉ là thay thế nhưng ý nghĩa vô cùng. Từ ngày mất cha và quen biết thầy,
trong thâm tâm Nghĩa luôn xem thầy là cha của mình, tuy không trọn vẹn nhưng
chí ít cũng phần nào lấp bớt cảm giác trống vắng, lạc loài.
Tối hôm đó về nhà,
lòng cậu như được giải thoát khỏi cái mớ bòng bong mà cậu tự giăng mắc trong lòng
bấy lâu nay. Thì ra, khi trong cậu giận thầy thì thầy cũng vô cùng khổ tâm. Bởi
chính thầy đã chủ động làm điều đó, chẳng khác nào tự gieo nỗi khổ cho mình. Là
người cùng làng, mỗi ngày nhìn thấy ba mẹ con Nghĩa lầm lũi, sáng ra chợ bán mớ
rau, về nhà lại ra đồng, rồi quần quật tối ngày không được nghỉ ngơi. Từ ngày
cha Nghĩa mất đi, tuy cậu ra sức đỡ đần nhưng vì còn lo việc học, và với sức lực
của cậu thì làm sao bằng vai trò trụ cột của người cha. Mẹ Nghĩa ngày càng gầy đi,
lại còn đứa em kém cậu năm tuổi còn đi học. Thầy muốn cậu học tốt môn Toán và
những môn tự nhiên để sau này có thể thi vào những ngành kinh tế, ra trường có
thu nhập tốt, đỡ đần phần nào kinh tế cho gia đình. Nếu cậu là con gái thì có lẽ
thầy sẽ nghĩ khác. Là người suốt đời theo nghiệp văn chương, giảng dạy văn chương,
thầy biết rõ sự chật vật về mặt kinh tế cũng như những khổ tâm mà cái nghiệp này
mang lại. Người ta thường nói văn là nghiệp, ít khi nào tâm trí được thảnh thơi.
Cũng như cậu, nếu không đam mê và dính nghiệp văn chương, chắc gì cậu đã mang nỗi
ấm ức với thầy lâu đến vậy. Và cũng chắc gì cậu đã trưởng thành và nặng tình với
mảnh đất quê này đến thế.
Ngày cậu khăn gói
lên thành phố học, các bạn cứ tưởng cậu sẽ theo học trường Bách Khoa. Chỉ có thầy,
tuy không ai nói nhưng thầy biết rất rõ những ý nghĩ và hành động của cậu học
trò. Có lẽ vì vậy mà thầy càng thương và luôn âm thầm dõi theo cậu.
Bây giờ Nghĩa đã
trưởng thành, cũng là một thầy giáo dạy Văn, truyền lửa cho bao nhiêu thế hệ học
trò, nhưng năm nào 20/11 cậu cũng dành thời gian về quê thăm thầy, cũng là thăm
lại người cha thứ hai của mình.
11.2012