Trần
Lê Hoa Tranh
Vậy
là cuối cùng, giải Nobel Văn chương 2012 đã có chủ, đúng một giáp từ năm 2000
khi Cao Hành Kiện (mặc dù đã bị tước quốc tịch Trung Quốc nhưng ông là nhà văn
Trung Quốc trăm phần trăm) được trao giải Nobel và bị người Trung Quốc phản
đối, cho việc trao giải đó mang tính chính trị“như là một sự sỉ nhục và cũng là
sự khinh thường đối với chúng ta” (Bắc Kinh Văn báo), “đây là một trò
đùa không đúng chỗ, nó sẽ làm mất uy tín của Ủy ban Nobel dưới con mắt một bộ
phận dư luận Trung Quốc” (Văn hối báo)... Thì nay, chắc là họ hoan hỷ vì
Mạc Ngôn là nhà văn xuất sắc chính thống của họ.
Không
phải ngẫu nhiên mà cả Mạc Ngôn và H.Murakami đều đứng đầu danh sách các nhà văn
có khả năng được giải Nobel năm nay. Châu Á đang nóng vì nhiều vấn đề.Những giá
trị châu Á đang được quan tâm. Và cả Mạc Ngôn lẫn Murakami đều thuộc loại nhà
văn ăn khách, phổ biến, nổi tiếng, tác phẩm của họ lại còn được dựng thành phim
để đến gần công chúng hơn… những tiêu chí vốn xa lạ với một giải Nobel bác học,
hàn lâm, xa rời thị trường.
Điều
đó cho thấy tính chính trị và tính đại chúng đang dần dần thống lĩnh hoàn
cầu. Chiếm lĩnh cả một giải thưởng văn chương danh giá. Nhiều người sẽ bảo: Nobel
là cái quái gì chứ? Nhưng rõ ràng, con người ta phải tin vào một cái gì đó,
phải có một chuẩn thức, và giải Nobel, vốn do một ủy ban uyên bác, công bằng,
không thuộc một nước lớn mà là của một quốc gia trung lập, vẫn là đỉnh điểm cao
quý của nghề văn.
Tôi
dõi theo Mạc Ngôn và Murakami từ khi sách họ mới vào Việt Nam. Tôi có và đọc
gần hết tác phẩm của họ. Cả hai nhà văn này tôi đều thích, thích ngay từ dòng
đầu tiên. Điều này cũng hơi lạ, vì tôi vốn dị ứng với lối viết hơi dung tục
(như của Mạc Ngôn) và rề rà (như kiểu Murakami). Tôi vẫn thích đọc cái kiểu trong
sáng, giản dị, nhẹ nhàng ảnh hưởng của văn học Pháp và Nga. Nhưng không hiểu
sao, cả Mạc Ngôn và Murakami tôi đều đọc được. Đọc một mạch đến hết. Có một vài
vị thầy của tôi đã nhận xét là cố đọc hai tác giả này chỉ đến 30 trang là bỏ,
không tiếp tục được.Đó cũng là một nhận xét của phía độc giả không yêu thích
Mạc Ngôn và Murakami vốn không phải là hiếm trong giới học thuật.
Công
bằng mà nói, vài năm gần đây, Mạc Ngôn viết xuống tay hẳn. Ba tác phẩm tôi cho
là xuất sắc nhất của ông, thường khuyên sinh viên tìm đọc, làm luận văn… là Cao
lương đỏ, Phong nhũ phì đồn (Báu vật của đời) và Đàn hương hình. Còn lại,
đều chỉ thuộc loại tầm tầm. Tứ thập nhất pháo quá bề bộn.Thập tam bộ,
Ếch, Tửu quốc… nhiều motif lặp lại và dài dòng. Rừng xanh lá đỏ và Cây
tỏi nổi giận còn thua Nguyễn Ngọc Tư về mức độ da diết và khắc khoải.Chiến
hữu trùng phùng thì khỏi nói, quá tệ cả về phong cách lẫn tư tưởng…
Murakami
cũng vậy, càng ngày càng trở nên mang tính “thị trường”.Rừng Na Uy, Biên
niên ký chim vặn dây cót và Kafka bên bờ biển theo tôi cũng là ba
tác phẩm lớn của ông. Xứ sở diệu kỳ và nơi chốn tận cùng thế giới, tuy
mượn kết cấu “phản trinh thám”nhưng không thành công lắm. Người tình Sputnik
và Phía Nam biên giới, Phía Tây mặt trời chưa đủ sức mạnh về tư tưởng,
mang hơi hướm văn học diễm tình quá. Tôi cũng từng phản biện luận văn về
Murakami, và tôi cho rằng, trường hợp của Murakami nên được xem xét dưới góc độ
thành công của văn học đại chúng hơn là văn học cổ điển, bác học. Vì lẽ tác
phẩm của ông như có sẵn công thức để hấp dẫn mọi giới, cảm giác như mình được
bao bọc trong một cái lưới êm ái, không dứt ra được mặc dù biết là mình đang bị
vào tròng.
Nhưng
nói như vậy không phải là chê bai họ. Tôi vốn là người hâm mộ họ. Và đọc họ, vừa
với niềm yêu thích, vừa với con mắt của nhà phê bình.
Về
Murakami, nhiều người nhận xét là đã chạm vào những vi tế nhỏ nhất của cảm xúc.
Ông diễn tả tài hoa tâm trạng của Người: về nỗi thống khổ của một con người
sống trong thời đại thừa mứa về vật chất nhưng cô độc và lang thang. Về những
tình yêu dằn vặt. Về cái đẹp mong manh vô thường vốn là cảm hứng của các nhà
văn Nhật Bổn từ cổ chí kim. Về cái chết tự chọn vốn là đặc trưng của phong cách
sống Nhật. Nghĩa là, ông viết về nước Nhật, về người Nhật trong một xã hội quá
gần nhau nên ta thấy bóng dáng của mình trong đó. Người đọc các nước đã thổn
thức với sách ông, than vãn rằng sao ông tài tình nói thay cảm xúc của họ. Văn
ông tài hoa nhưng bình dị. Và điều đó khiến ông nổi tiếng, khiến ông
“public”(phổ biến). Và nó là lực cản khiến ông không đến được với giải Nobel,
vốn không chuộng tính phổ thông, vốn trao giải vì nhiều lý do khác bên cạnh lý
do văn chương (ví dụ như lý do tuổi tác, Murakami còn khá trẻ so với các nhà
văn được giải từ xưa đến nay; lý do regional - vùng miền: thông thường, giải
Nobel xoay vòng từ Âu, Mỹ, Phi, rồi đến Á; lý do chính trị: năm nào có điểm
nóng về cái gì đó, nơi nào đó thì giải Nobel tập trung vào đó)…
Còn
Mạc Ngôn, có lẽ là nhà văn Trung Quốc được dịch, được đọc và được nghiên
cứu nhiều nhất trên thế giới trong thế kỷ 20, chỉ sau Lỗ Tấn. Giữa Mạc
Ngôn và Lỗ Tấn thực ra có nhiều điểm tương đồng tôi sẽ nói sau. Điều đó cho
thấy cũng giống như Murakami, ông là người quân bình, đi chênh vênh giữa hai
thế văn chương bình dân và văn chương bác học. Văn ông thì dân dã, bỗ bã, thậm
chí có lúc suồng sã, dung tục. Nhưng nó kết hợp những huyền thoại, dân gian
Trung Quốc, và tô đậm đời sống Trung Quốc. Nghĩa là, người Trung Quốc có thể tự
hào vì có một nhà văn mang bản sắc nước họ đi “đấm xứ người”. Mạc Ngôn từng
nhiều lần được mời đi nói chuyện, đọc sách, giới thiệu sách ở những trường đại
học lớn trên thế giới. Ông được giảng dạy trong hầu hết các chuyên đề về văn học
Trung Quốc đương đại hoặc văn học châu Á đương đại ở đại học các nước. Nhưng
người Trung Quốc hiện lên trong tác phẩm của ông thật đáng thương. Tôi không
hiểu nhà nước chính thống ở Trung Quốc tự hào về ông, một nhà văn quân đội ở
điểm nào, chứ còn, cái làm cho Mạc Ngôn vĩ đại, và gần với Lỗ Tấn, là ở việc
khắc họa được thân phận của người Trung Quốc, tao loạn, tan tác vì lịch sử và
biến cố, số phận của họ bị vùi dập, bị quăng quật còn hơn cả con muỗi. Con muỗi
còn có vũ khí, còn họ, họ hoàn toàn bị động và chìm khuất trong những va đập
của lịch sử, của chính trị. Tuy vậy, như bản chất của người Trung Quốc, họ chịu
đựng, và quật cường. Người ta thích đọc Mạc Ngôn vì lẽ đó. Nếu như Murakami chú
trọng đến tế vi cảm xúc thì Mạc Ngôn đem đến những giằng xé dữ dội của kiếp
người. Không ai khổ như nhân vật của Mạc Ngôn, mà cũng không ai dai dẳng, bền
bỉ sức sống như nhân vật của Mạc Ngôn. Đó là phong cách Trung Quốc. Người Trung
Quốc vốn lạc quan chứ không bi quan như người Nhật. Người Trung Quốc không hay
tìm đến cái chết như người Nhật. Người Trung Quốc gắng gỏi sống, ráng mà sống.
“Phải sống”[1].Như
cuộc sống nó vốn là.
Điểm
Mạc Ngôn gần Lỗ Tấn, còn là sự dũng cảm. Để viết, và in, và nổi tiếng mà vẫn giữ
được cái cốt lõi muốn nói trong tác phẩm của mình ở một đất nước còn chế độ
kiểm duyệt xuất bản, thật không dễ. Đọc Phong nhũ phì đồn, Cây tỏi nổi giận,
Rừng xanh lá đỏ, Thập tam bộ… thấy ông khá mạnh tay phê phán. Thành ra, dù
là một nhà văn quân đội chính thống, cơ hồ Mạc Ngôn không hề ca ngợi chế độ,
không trở thành “bồi bút” mà đã nói lên được điều cốt lõi nhất: số phận Trung
Quốc tao tác qua những biến thiên lịch sử, thời đại. Điểm này Murakami sướng
hơn Mạc Ngôn. Tôi hay tưởng tượng, Murakami vừa thảnh thơi, vừa đi bộ, vừa
viết, như một niềm yêu thích, như một thú vui tao nhã. Còn Mạc Ngôn, vừa viết,
vừa canh chừng trước sau rình rập, giống như nghệ sĩ xiếc đi trên dây, căng
thẳng, hồi hộp, một là đến bờ vinh quang, hai là tan xác…
Về
sự dũng cảm này, khi đưa Mạc Ngôn và Murakami lên bàn cân giải Nobel, tôi nghĩ,
chọn Mạc Ngôn là đúng.
Nhưng
một nhà văn lớn của thời đại, một nhà văn xứng tầm Nobel, danh giá nhất hành
tinh, theo tôi, phải là một nhà văn nhân loại. Nghĩa là, nhà văn đó phải thực
sự vượt qua ranh giới quốc gia không chỉ theo nghĩa hẹp là sách được xuất bản
khắp nơi, mà còn là theo nghĩa rộng: vượt qua những hiềm khích dân tộc, vượt
qua sự hẹp hòi của “dân tộc chủ nghĩa”, nhất là ở một đất nước như Trung Quốc,
dân tộc tính, chủ nghĩa đại Hán vốn là thâm căn cố đế. Thì Mạc Ngôn, chưa đạt
đến mức nhân loại. Với Chiến hữu trùng phùng (Ma chiến hữu), viết về
cuộc chiến tranh Trung - Việt năm 1979 mà Mạc Ngôn gọi là “cuộc chiến vệ quốc”,
tuy bằng giọng văn ôn hòa, không đến nỗi hiếu chiến, nhưng rõ ràng Mạc Ngôn vẫn
đứng trên lập trường nước mạnh, nước lớn “cả vú lấp miệng em”. Nếu muốn xứng
tầm là một nhà văn Nobel, rõ ràng, Mạc Ngôn nợ Việt Nam một lời xin lỗi.
[1]Tên một
tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Dư Hoa, được đạo diễn Trương Nghệ Mưu chuyển thể
thành phim.
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.