“Cuộc đời không phải là xâu chuỗi thật sự vui, xâu chuỗi có nhiều hạt lớn, hạt nhỏ, hạt xấu, hạt tốt, hạt cười, hạt khóc, hạt hạnh phúc, hạt vô hạnh… nó là xâu chuỗi vô thường” (Mạc Can)

Thứ Bảy, 22 tháng 9, 2012

Bài 1: Nghĩa tình trong thơ đồng bằng sông Cửu Long



 

Nguyên Hậu





             Mảnh đất Nam bộ từ khi hình thành đến nay đã hơn 400 năm với biết bao thăng trầm của lịch sử, chưa kể phải gánh chịu thảm họa của tự nhiên nhưng con người vẫn bám trụ, vẫn nương dựa vào nhau để cải thiện đời sống, xây dựng một phương Nam xanh tươi, trù phú. Cùng nằm trong dãy đất miền Nam nhưng miền Tây Nam bộ lại có điều kiện tương đối đặc biệt. Một dãy đất đồng bằng phù sa màu mỡ, quanh năm hai mùa mưa nắng, sông ngòi chằng chịt mang lại cho con người rất nhiều ưu đãi từ tự nhiên. Có lẽ vì vậy mà từ khi khai hoang mở cõi đến nay, trải qua bao nhiêu thăng trầm, người dân miền sông nước vẫn bám trụ mảnh đất này và xem đó là quê hương của mình. Nói là vậy, chứ tận trong sâu thẳm cội nguồn vẫn còn thương lắm câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ khi lần đầu tiên đặt chân trên mảnh đất phương Nam: 
Từ lúc mang gươm đi mở cõi
 Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”.
Dù trải qua bao đời, dấu ấn mở cõi dường như vẫn còn hiện diện trong tâm thức bao người con phương ấy. Bởi vậy, nói đến thơ ca đồng bằng, đó có lẽ là cảm hứng đầu tiên không bao giờ vơi cạn trong tâm thức thi nhân. Làm sao quên được cái thuở gian nan, khổ cực mà cha ông ta đã trải qua. Ngày nay đọc lại những câu thơ vẫn thấy rùng rợn trước bao gian nan thuở trước: 
Rắn thành tinh khè lửa
Sấu thành tinh đội đèn
Vẹt muỗi mòng đĩa vắt
Tiếng độc huyền vút lên
Máu mổ hôi thánh thót
Đất lạ đã thành quê
Mênh mang thời mở cõi
Ai “dạ cổ hoài lang”?”
                                                  (Khúc tình phương Nam – Trần Ngọc Hưởng)
Tình nghĩa quê hương đã đi vào tâm khảm, thấm vào máu và nước mắt, thế nhưng tận trong sâu thẳm những người dân nơi đó vẫn không sao phai nhòa được mặc cảm lưu dân. Vũ Hồng từng có đôi câu tuyệt bút về nỗi niềm ấy:
“Người phương Nam say thì say trọn
 Người phương Nam buồn thì buồn sâu
 Nỗi nhớ cố hương còn chếch choáng
Văng vẳng ầu ơ giọng ví dầu”
                                                                      (Người phương Nam - Vũ Hồng)
 Thương làm sao cái “say trọn”, cái “buồn sâu” da diết đó. Thế mới biết người phương Nam nặng nghĩa nặng tình thế nào. Cái “say” không làm cho người quên đi nguồn gốc, cái “buồn” không làm cho người ta sầu chí ly quê. Tận cùng trong sâu thẳm, họ vẫn nuôi dưỡng cái “sầu” bất tận để nhắn nhủ với nhau sống sao cho có nghĩa có tình.
Đến với kho tàng thơ ca đồng bằng, thật không gì ấn tượng hơn khí chất con người nơi đây. Nếu ai chưa một lần đặt chân tới mảnh đất miền Tây, đọc thơ ca đương đại đồng bằng cũng phần nào hiểu được cuộc sống đó: 
Ở đây đất rộng người đông lắm
Những mái nhà lợp lá đơn sơ
Những tâm hồn nhỏ hiền như thóc
Từng ấy yêu thương rất mặn nồng
               (Vùng đất yêu thương – Phan Trọng Hiền)
Tự nhiên có tác động rất lớn tới việc hình thành bản chất của con người. Trong những ngày đầu tiên đặt chân đến miền xa lạ, trong gian khó hiểm nguy, họ - những người lưu dân vốn không quen biết gì nhau đã nương dựa vào nhau lập nên cái ấp, cái làng. Trong điều kiện như thế, không gì cần thiết hơn là phải gắn bó, yêu thương nhau để sinh cơ lập nghiệp. Lâu dần, điều đó đã trở thành tính cách, khí chất của người dân Nam bộ. Cái thoải mái, phóng khoáng, nghĩa hiệp của anh chàng Lục Vân Tiên trong truyện cụ Đồ Chiểu có lẽ cũng được dưỡng nuôi trong bầu không khí và văn hóa ứng xử như thế. Với họ không gì quý hơn tình nghĩa giữa con người với nhau. Trong gian khó hiểm nguy vẫn giữ cho mình sự trong sáng, nghĩa tình không hơn thua tính toán.
Đọc thơ đồng bằng, thật không khỏi xót xa với cái cảnh mênh mông trời nước vẫn thường xuyên diễn ra khi nước lũ tràn về. Mỗi lúc như thế, cuộc sống sẽ vô cùng vất vả, nhưng người dân vẫn rất thương yêu nhau, san sẻ cho nhau những “nụ cười nguyên vẹn” trên mảnh đất tình người:
Chợ mùa lũ kẻ bán, người mua chỉ đứng không ngồi
Riêng nụ cười nguyên vẹn
Bao tính toán bon chen
Cuốn trôi theo dòng nước
                                                               (Chợ quê mùa lũ – Ngọc Lộc)
Đến cả góc chợ quê cũng neo giữ trong đó biết mấy thân thương, tình làng nghĩa xóm đậm đà. Về miền Tây, mỗi nơi dù phố hay quê đều có khoảng không gian dành cho chợ. Nhưng chợ quê nơi đây không bị vây chật hẹp trong tường vách lồng chợ hay siêu thị theo kiểu thành phố. Chợ quê lồng lộng gió và mây trời như tâm hồn người đồng bằng luôn luôn rộng mở. Góc chợ nhỏ ở vùng quê xa chỉ có mớ rau, vài ba con cá, bán mua với nhau cũng bằng cái nghĩa, cái tình.
Người phương Nam là vậy, đã say thì “say trọn” đã buồn thì “buồn sâu”. Càng yêu quê bao nhiêu, lúc rời xa lại càng thêm da diết. Lúc đó, có một lời thơ cất lên sẽ làm vơi bớt nỗi tình nơi xứ lạ quê người. Trịnh Bửu Hoài với Quê xa đem cảnh lưu lạc trắng tay ở quê người gởi vào thơ như giấc mơ của miền xa thẳm:
“Ta lưu lạc hai bàn tay trắng
Nhớ quê hiu hắt những vần thơ”
                                                              (Quê xa - Trịnh Bửu Hoài)
Cuộc sống thấm đượm tình nghĩa trong thơ của các tác giả miền Tây Nam Bộ còn được gợi hứng ở những trang viết về tình yêu, tình bạn. Tình đồng bằng khi nhẹ nhàng, ngọt ngào dịu êm như phù sa lặng lờ trôi, khi man mác buồn vì day dứt với người, trắc trở với đời. Thơ khởi phát từ tình cảm con người, chính vì vậy mà cái gì đằm sâu trong cảm xúc thật khó thể giấu che. Tình yêu, tình bạn, tình bằng hữu, tình xóm làng… tất cả luôn đong đầy trong từng trang thơ, từng hơi thở của thi nhân. Tình yêu ấy có chút gì mặn mà, đằm thắm như cái khói đốt đồng những buổi chiều quê chứ không bộc lộ một cách mãnh liệt hay xô bồ như chốn thị thành. Thương làm sao cái rụt rè “thò tay bứt một cọng ngò” ngày xưa giờ trở thành cái “chín nhớ mười mong” của chàng trai quê chất phác mà nặng nghĩa nặng tình:
Chiều nay chín nhớ mười mong
Lo sương thấm áo, lo giông đau đầu
Nửa đêm lá đổ lao xao
Lo em về muộn… mưa ngâu lạnh lòng
                                                             (Nhớ - Huỳnh Công Trần Hải)
Không chỉ trong tình yêu, tình bằng hữu nơi đây cũng thắm thiết làm sao. Đối đãi với bạn đã khuất bằng tình tri kỉ, xử sự với bạn còn sống bằng nghĩa tri âm. Những người dân miền sông nước Tây Nam bộ luôn rộng mở tấm lòng hiếu khách, đón người đến thăm đồng bằng với tấm lòng mênh mang sông nước, bằng tính cách “xả láng” của người miền Tây:
“Mùa lúa xong rồi ta nhắn bạn về chơi
Ngồi nhấp nháp cùng nhau ly rượu nếp
Khô cá lóc vùi rơm còn thơm mùi lúa nếp
Trái bưởi non dĩa muối ớt đủ rồi
                                             (Nhắn bạn - Nguyên Vũ)
Chỉ một lời “nhắn bạn” rất thật của Nguyên Vũ thôi đủ làm say lòng bao bước chân du lãng. Cần gì rượu nếp với khô cá ngon lành, cần gì cao lương mỹ vị, chỉ cần bưởi non hay muối ớt cũng đủ “xả láng” tình người. Người miền sông nước là vậy, kênh rạch thì chằng chịt, nhiều lối nhiều ngã mà lòng người lại rộng mở và chỉ có lối duy nhất dành cho sự yêu thương:
“Hãy cho nhau bằng nụ cười ánh mắt
Sống với nhau bình đẳng chuyện đời thường
 Hãy nhìn nhau bằng cái nhìn tình tự
Để trái tim còn ngọt vị yêu thương”.
Lời nhắn gởi thân thương mà chất chứa biết bao nghĩa tình. Cũng không phải chỉ hàng xóm láng giềng mà với tất cả mọi người trên đất nước Việt Nam, sông nước miền Tây vẫn luôn dang rộng cánh tay đón chào. Phải chăng vì thế mà ca dao xưa có câu: 
Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về”!

6.2011

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...