“Cuộc đời không phải là xâu chuỗi thật sự vui, xâu chuỗi có nhiều hạt lớn, hạt nhỏ, hạt xấu, hạt tốt, hạt cười, hạt khóc, hạt hạnh phúc, hạt vô hạnh… nó là xâu chuỗi vô thường” (Mạc Can)

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2011

SÁNG TÁC : LỜI CUỐI


Lời cuối
 Nguyên Hậu

Bài thơ cuối cùng em viết cho anh
Như đóng đinh vào lòng một vết tích
Để tháng ngày có trôi xa biền biệt
Vẫn còn nơi đó dấu yêu xưa
Em van anh xin anh đừng xóa
Để u hoài héo úa vết tình em
Màu tháng năm giờ nhuốm lệ chia phôi
Cơn mưa nhỏ xối lên tàn tích cũ
Ai trở về lòng ta thuở trước
Bỗng giật mình tiếc nuối giọt tình xa…

N.H

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2011

ĐỜN CA TÀI TỬ NAM BỘ: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN


Bài 4: Không gian Đờn ca Tài tử
Phạm Ngà

Chưa có một loại hình nghệ thuật nào mà môi trường diễn xướng phong phú và đa dạng như Đờn ca Tài tử. Nó có thể được chơi ở mọi không gian và thời gian. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào thì Đờn ca Tài tử cũng vẫn thể hiện được cái độc đáo của riêng nó. Nghệ nhân dân gian Bạch Huệ, với trên 50 năm ca hát, cho biết không gian chơi đờn ca Tài tử có thể là bất kỳ nơi đâu như trong xóm ấp, trong gia đình chứ không cần phải là một nơi sang trọng. Nhưng không gian đó bắt buộc phải không ồn ào, xô bồ; lý tưởng nhất là hát ca trên ghe, xuồng trên sông vào đêm trăng. GS.TS Trần Văn Khê và nhạc sĩ Tấn Nhì cũng nhấn mạnh rằng: Đờn ca Tài tử không cần phải có đông người chơi, đông khán giả. Chỉ cần đôi ba người tụ lại là đã thành một buổi đờn ca. Nhưng cái sự chơi đờn ca này đòi hỏi phải có sự tri âm, đồng điệu, say mê giữa những người chơi để ra chất tài tử tài hoa.
1. Đờn ca Tài tử trong không gian sinh hoạt
- Đờn ca Tài tử trên sông nước
Địa hình Nam Bộ chủ yếu là kênh rạch, nên phương tiên di chuyển thường là ghe, đò, xuồng, thuyền … Giữa dòng sông bao la, với từng cơn gió thổi từ lòng sông lên mát rượi, ánh trăng vằng vặc trên đầu và hai bên, tiếng dừa nước xạc xào, để thưởng thức khung cảnh trữ tình này, những người chèo ghe, chèo thuyền thường neo lại, ngồi quây quần hát với nhau. Tùy tâm trạng mà họ hát những bản Tài tử vui hay buồn. Những buổi Đờn ca Tài tử trên sông nước cũng là dịp thuận lợi để những chàng trai, cô gái bày tỏ tình cảm với nhau.
Miền sông nước có một loại xuồng phổ biến là xuồng câu tôm, những lúc rảnh rỗi người dân dong xuồng đi câu tôm. Họ thả cần ở chỗ dòng nước chảy nhẹ, đến khi nước đứng thì để cần lại lên xuồng bắc bếp nướng vài con tôm, thêm một ít rượu đế, trên xuồng lúc nào cũng để sẵn vài ba cây đàn. Các chiến hữu vừa nhấm nháp tôm mới câu vừa đàn hát. Khi trong người có hơi men, họ hát rất say sưa và cuộc vui kéo dài tới khi nào ai nấy mệt thì về nhà ngủ, hẹn hôm sau lại gặp nhau.
Ở An Giang, Cần Thơ, Tiền Giang còn có một loại thuyền gọi là Thuyền văn hóa, có chức năng như một Nhà văn hóa lưu động. Trên thuyền cũng có những buổi sinh hoạt theo chuyên đề. Trong quyển Đờn ca Tài tử trong đời sống văn hóa cư dân Tây Nam Bộ, TS Mai Mỹ Duyên có viết:
Các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian trên sông hẳn đã tác động đến việc sử dụng các loại ghe tàu làm phương tiện vận chuyển của những gánh cải lương đầu tiên ở Tiền Giang như: gánh thầy Hai Cu, gánh thầy Năm Tú và gánh Huỳnh Kỳ ([1]).
Mô hình đó phù hợp với địa hình sông nước ở miền Tây Nam Bộ và còn thể hiện được sự linh động, sáng tạo của con người nơi đây.
Có một loại xuồng với kích cỡ nhỏ, chỉ đủ một hoặc hai người ngồi gọi là xuồng ba lá. Nó dễ dàng len lỏi ở những chỗ đông đúc, nguy hiểm. Còn gì buồn hơn khi một mình chèo xuồng trên những quãng sông rộng, thấy thân phận mình nhỏ bé và cô độc quá. Thế là cất lên vài ba câu Vọng cổ mà mình thuộc nằm lòng như để xua tan cái không khí hoang vắng, cô liêu. Không bạn hữu, không ban nhạc, không ai cả thì họ hát cho “mình ên” nghe, vì người nghệ sĩ là người thưởng thức tác phẩm của mình trước tiên.
Đờn ca Tài tử trên sông là một nét đặc thù của miền sông nước, những buổi đờn ca với nhau góp phần làm tăng tình thân ái giữa những bạn ghe, bạn thuyền từ đấy họ thông cảm và động viên nhau trên bước đường lữ khách tha phương.
-                     Đờn ca Tài tử tại nhà riêng
Nhà của người Nam Bộ xưa rất đơn giản, phù hợp với cuộc sống nông nghiệp và lối sống rày đây mai đó. Trong nhà thường có một bộ ván ngựa, được xem là một vật có giá trị. Theo TS. Phan Thị Yến Tuyết trong quyển Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long:
Xưa kia, cách bài trí phòng khách ở nhà trên của người Việt Đồng bằng sông Cửu Long là đặt ba bộ ván ngựa ở ba gian phía trước gian thờ. “Bộ ngựa” là từ ở Nam Bộ chỉ bộ ván gỗ tốt, có kích thước to, chân đóng kiểu chân quỳ ([2]).
Đờn ca Tài tử ngày ấy chỉ có ca, chưa có điệu bộ nên cả ban nhạc và người hát đều ngồi trên bộ ván ngựa mà đờn mà ca với nhau, bà con xung quanh kéo nhau lại xem. Có khi đông quá họ kéo nhau ra ngoài sân trải chiếu ngồi, thậm chí hành lang cũng có thể làm nơi để tổ chức đờn ca. Những đoạn xuống “Xề” mùi mẫn người ca nhận được tràng vỗ tay, hưởng ứng nhiệt tình càng làm tăng hứng thú. Có người nắm vững kiến thức về nhạc lý liền sáng tác “sống” một bài và biểu diễn ngay để mọi người thưởng thức tạo nên sự hấp dẫn cho buổi chơi. Ban ngày họ là những bác nông dân, anh thợ lái máy cày hay chị thợ may nhưng buổi tối họ lại là những ca sĩ, nghệ sĩ tài hoa.
Ngoài ra còn có những buổi sinh hoạt đờn ca ngay trong nhà các nghệ nhân. Buổi sinh hoạt ấy chỉ diễn ra ở những gia đình có truyền thống lâu đời về Đờn ca Tài tử. Theo GS.TS Trần Văn Khê thì cứ mùng hai Tết, gia đình, dòng họ ông lại tập trung để biểu diễn Đờn ca Tài tử như một buổi họp mặt đầu năm. Bên cạnh đó, nó cũng là một nghi thức như người ta khai bút đầu năm hay người nông dân bổ những nhát cuốc đầu tiên trên đồng ruộng. TS. Mai Mỹ Duyên còn cho biết:
Các buổi hòa đờn tại gia cũng là cách để rèn luyện tay nghề vừa để tiêu khiển  thời gian nhàn rỗi. Hình thức này vẫn duy trì cho đến hiện nay ở các gia đình Tài tử ở vùng Tây Nam Bộ ([3]).
-         Đờn ca Tài tử trong các lễ hội, lễ tiệc
Do đặc điểm nước ta là một nước nông nghiệp, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên cả nước nói chung và ở Nam Bộ nói riêng có rất nhiều lễ hội. Mục đích là để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngày trước, phần lễ rất được chú trọng, nhưng dần dần, cuộc sống mở ra, con người cũng thay đổi quan niệm, họ bắt đầu chú ý đến phần hội nhiều hơn. Đờn ca Tài tử vì thế có điều kiện thể hiện mình trước đông đảo người xem. Đây cũng là dịp để các ban đờn ca Tài tử thi thố tài năng từ đó có thể học hỏi lẫn nhau để hoàn thiện hơn.
Trong quyển Nghệ thuật sân khấu Việt Nam của Trần Văn Khải có bàn đến việc đờn ca Tài tử biểu diễn trong các lễ tiệc:
Các ban Tài tử đờn ca trong các cuộc lễ tại tư gia, tân hôn, thăng quan, giỗ quải… nhưng không bao giờ có đờn ca trên sân khấu hay trước công chúng ([4]).
Thời kì manh nha, ban nhạc Tài tử thường được mời biểu diễn trong các đám tang. Ban nhạc Lễ lãnh đám từ lúc vào đến nửa đêm. Sau đó bạn nhạc Tài tử lãnh tiếp từ nửa đêm cho đến sáng, lúc đó ai về thì về, còn ai yêu thích ca hát thì ngồi lại cùng ban nhạc. Sau khi nhóm đờn cây tách ra khỏi dàn nhạc Lễ thì Đờn ca Tài tử ít biểu diễn trong đám tang mà chủ yếu là đám cưới, đám giỗ hay đám sinh nhật.
-         Đờn ca Tài tử trong quán
Ở các quán ăn, chủ quán thường mời ban nhạc đến ngồi cùng bàn với khách, đàn ca giúp vui. Khách thích bài gì thì đờn, hát bài đó, đến lúc khách ngà ngà say thì chính khách lại là người hát ban nhạc chỉ đệm đàn.
Để tránh cuộc đàn áp của thực dân Pháp, những người nông dân đã chấp nhận rời bỏ làng quê lên thị trấn, thị xã làm ăn nhưng vẫn không nguôi ý chí đánh giặc trả thù nhà. Họ làm nhiều ngành nghề khác nhau, trong đó cắt tóc là nghề mà được nhiều người lựa chọn vì nó thể hiện được sự khéo léo, sáng tạo và tiệm cắt tóc cũng là một địa điểm để các anh em trao đổi thông tin dưới hình thức là những buổi đàn ca. Trong tiệm thường có vài ba cây đàn để khách có thể chơi trong lúc ngồi chờ tới lượt mình. Những lúc rảnh rỗi, thợ cắt tóc là nghệ sĩ với những ngón đàn lão luyện. Nhưng khi có khách lại trở về vai trò khán giả vừa làm vừa nghe những vị khách của mình chơi. TS. Mai Mỹ Duyên có ghi:
Ông Sáu Hoanh - một nghệ nhân chơi đàn khá giỏi của thị trấn Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, sở trường của ông là đàn tranh nhưng ông cũng sử dụng thành thạo ba loại nhạc cụ khác (kìm, sến và ghi-ta). Ông hớt tóc rất khéo, có ngón đờn hay nhưng không có con, cháu nối nghiệp ca cầm. Ngón đờn tài hoa đã theo ông xuống lòng đất lạnh! Khi ông mất, tiệm hớt tóc đóng cửa, các bạn tài tử cũng tan rã dần ([5]).
-                     Đờn ca Tài tử giữa cảnh trời trăng mây nước
Còn gì thú vị bằng những buổi trưa hè nóng bức, mang đàn ra ngoài vườn hay ngồi dưới mấy gốc me, gốc xoài mà đàn hát với nhau. Gió mát lồng lộng, người đờn người ca thư thái, hiền hòa.
Đây cũng là điểm khác biệt giữa miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Miền Đông do địa hình nhiều đồi dốc, vì thế họ phải làm lụng vất vả mởi có cái ăn, cuộc sống luôn tất bật. Họ ít có thời gian ngồi nói chuyện hay ngồi hò hát với bạn bè. Ngược lại, miền Tây với sự ưu đãi của thiên nhiên địa hình bằng phẳng, nhều kênh ngòi, phương tiện đi lại phong phú. Họ chỉ cần làm một buổi là đã đủ ăn, tôm cá có sẵn, cuộc sống an nhàn, ung dung, tự tại. Những lúc rảnh rỗi họ lấy đờn ra làm vài bản vui với nhau. Trên đường đi cấy, đi cày hay gặt lúa, họ cũng ngân vài câu vọng cổ để ngày mới thêm nhiều niềm vui. Những chàng trai, cô gái chịu thương chịu khó thường để ý nhau và buông lời tán tỉnh bằng những câu ca ngọt lịm. Có thể nói người dân Nam Bộ đàn hát quanh năm, điều đó giúp họ thấy cuộc sống yên bình, tươi vui và năng suất lao động cao hơn.
-                     Đờn ca Tài tử trong những buổi tiễn đưa tân binh, bộ đội:
Đây không phải là môi trường phổ biến, rộng rãi để phát triển đờn ca Tài tử nhưng ở một giai đoạn nào đó, Đờn ca Tài tử đã thể hiện đầy đủ sức mạnh của mình. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đờn ca Tài tử là một trong những hoạt động sôi nổi nhất của phong trào Tiếng hát át tiếng bom. Những buổi tiễn đưa đầy bịn rịn, luyến lưu trong đó không thể thiếu ban đờn ca Tài tử với những bài ca ngợi đất nước, đồng thời động viên các chiến sĩ ta lên đường. Từng lời ca như tiếp thêm sức mạnh cho các anh trên đường ra trận. Một số bản nhạc Tài tử trở thành bất hủ như: Mặt trận Tầm Vu, Chống Bảo Đại, Lưu Thủy Trường, Xuân Tình… bài Hận sông Gianh thường được dùng khi đất nước còn nỗi đau chia cắt hai miền Nam - Bắc, Bài ca Trường Sơn là nỗi lòng người con An Giang đang đứng trên đỉnh Trường Sơn thương nhớ về Bảy Núi quê nhà khắc ghi mối căm thù, tự động viên mình, động viên đồng đội quyết chiến quyết thắng. Chiến tranh tuy gian khổ nhưng không hề kém phần lãng mạn, bài ca Dệt chặng đường xuân với lời ca trau chuốt, súc tích và đầy sức mạnh ca ngợi các anh chị giao liên lạc quan trong gian khổ hy sinh, ngày đêm như con thoi khắp sông rạch, đồng bằng miền Tây Nam Bộ, kiên cường anh dũng đánh giặc. Không gian ấm cúng của buổi tiễn đưa ấy làm ấm lòng người ra đi và trở thành những kỉ niệm không thể nào quên, hành trang các anh mang theo là những câu hò xự xang quê hương đằm thắm nghĩa tình.
-                     Đờn ca Tài tử trong hoạt động du lịch
Nhận thấy tầm quan trọng cũng như tính hấp dẫn của Đờn ca Tài tử, nhiều công ty du lịch đã thuê các ban Tài tử cùng đồng hành trong chuyến đi để ca cho các khách du lịch nghe. Và đó cũng là tiết mục thu hút được sự chú ý của các khách du lịch trong và ngoài nước.
Ở Bến Tre hiện nay, có nhiều khu du lịch với nhiều ban Đờn ca Tài tử. Không có sân khấu, ban nhạc ngồi giữa, khán giả ngồi xung quanh rất gần gũi, thân tình. Người nghe không phải trả tiền, nhưng gần đó có để một cái dĩa, nếu ai muốn thưởng riêng cho bạn nhạc thay cho lời cảm ơn vì những cảm xúc họ mang đến thì bỏ tiền vào cái dĩa ấy. Trang phục biểu diễn cũng được đầu tư kĩ lưỡng, thường là mặc áo dài. Hoạt động này rất hữu ích vừa giúp các nghệ sĩ có điều kiện trang trải cuộc sống và mua sắm dụng cụ cho ban nhạc. Bên cạnh đó, nó còn có tác dụng lớn lao là giúp Việt Nam có điều kiện quảng bá loại hình nghệ thuật truyền thống cho bạn bè các nước thưởng thức. Đó là đứng trên khía cạnh những buổi biểu diễn mang tính nghệ thuật của những người có tâm với nghề chứ không phải vì những mục đích bất chính nào khác.
2. Đờn ca Tài tử trên sân khấu
Khi đờn ca Tài tử ngày càng phát triển và nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của khán giả, nó nhanh chóng lan rộng thành một phong trào, như một làn sóng cuốn trôi những ai đam mê và yêu thích nó. Nếu đã nghe họ sẽ ghiền mà đã ghiền thì không thể nào dứt ra được.
Nguyên nhân Đờn ca Tài tử chuyển từ hình thức ngồi trên bộ ván ngựa để đứng biểu diễn trên sân khấu là sau khi ban Tài tử của ông Nguyễn Tống Triều được mời sang Pháp biểu diễn năm 1910. Trong Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Trần Văn Khải kể:
Nghe được cách cho “Đờn ca trên sân khấu”, Thầy Hộ, chủ rạp chiếu bóng Casino, ở sau chợ Mỹ Tho, bèn mời ban tài tử Tư Triều, đến trình diễn mỗi tối thứ tư và thứ bảy trên sân khấu, trước khi chiếu bóng, được công chúng hoan nghinh nhiệt liệt.
Cũng trong quyển này ông đã mô tả:
Cách chưng dọn sân khấu còn đơn sơ. Cái màn bạc dùng làm bối cảnh (fond) kế đó có lát một bộ ván, trước bộ ván có để một cái bàn chưn treo. Hai bên sân khấu có để cây kiểng, xem rậm đám và khán giả có cảm giác đứng trước một cái phòng khách hạng trung lưu. Cách bài trí sân khấu này tuy đơn giản, nhưng nó gợi cho các nhà dàn cảnh cải lương sau này những ý niệm về việc trang hoàng sân khấu. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván và mặc quốc phục xem nghiêm trang ([6]).
Trong Sân khấu Cải lương, Nguyễn Thị Minh Ngọc và Đỗ Hương cũng có viết:
Vào năm 1915, Nguyễn Tống Triều và ban nhạc Tài tử ở Mỹ Tho lên trình diễn ở nhà hàng Cửu Long Giang cạnh chợ Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên nhạc Tài tử lên sân khấu chuyên nghiệp ở Sài Gòn ([7]).
Còn Vương Hồng Sển trong Hồi kí 50 năm mê hát thì nói theo sự hiểu biết của ông:
Năm 1915 trở về trước, tại miền Nam, tài tử còn ca kiểu “độc thoại”.
Năm 1916, có ca kiểu "đối thoại" (ca ra bộ)
Đêm 16 tháng 11 năm 1918, tại Rạp Hát Tây Sài Gòn, có diễn tuồng Pháp - Việt nhứt gia (tức Gia Long tẩu quốc) đánh dấu thời kỳ phôi thai của Cải lương.
Cho đến nay, các mốc thời gian vẫn chưa được xác định nhưng tất cả những sự kiện đó nói lên rằng, đờn ca Tài tử đã thoát khỏi hình thức sinh hoạt dân dã để trở thành một hoạt động mang tính chuyên nghiệp khi đứng trên sân khấu. Người hát không ngồi yên một chỗ như lúc trước mà họ đứng dậy đi qua đi lại và còn có thêm những điệu bộ trong lúc hát. Điều này diễn ra vài năm sau khi ban nhạc của ông Nguyễn Tống Triều được mời sang Pháp biểu diễn. Phải chăng việc giao lưu, tiếp xúc với nền văn hóa mới lạ của phương Tây đã làm các nghệ nhân thay đổi phong cách biểu diễn của mình để đờn ca Tài tử trở nên hấp dẫn hơn?
Việc đổi mới nhưng không làm mất đi bản sắc dân tộc đã  đem lại một sức sống mới cho đờn ca Tài tử và đây cũng là bước trung gian để đờn ca Tài tử phát triển thành Cải lương, biểu diễn trên những sân khấu chuyên nghiệp như ngày nay. Và theo TS. Mai Mỹ Duyên thì:
Sau năm 1975, Đờn ca Tài tử được đưa lên sân khấu diểu diễn trong các cuộc liên hoan, hội thi từ cơ sở đến khu vực. Hầu hết 12 tỉnh Tây Nam Bộ, đờn ca Tài tử dưới hình thức liên hoan, hội thi đã trở thành hoạt động định kỳ (một hoặc hai năm tổ chức một lần). Trong số các hình thức hội, nhóm, các câu lạc bộ đờn ca Tài tử hiện đang là mô hình họat động có hiệu quả (ở các nhà văn hóa xã, phường) trong các hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở vùng Tây Nam Bộ ([8]) [9, 111-112]
Ngày nay, với mục đích lưu giữ, bảo tồn và phát triển Đờn ca Tài tử ngày càng được mở rộng hoạt động. Ở trong nước, nhiều nhóm, câu lạc bộ được thành lập, sinh hoạt và biểu diễn định kỳ, phục vụ miễn phí cho khán giả đến xem. Ở nước ngoài, đờn ca Tài tử nhận được nhiều lời mời biểu diễn. Đến nay mức độ chuyên nghiệp đã đạt đến đỉnh cao nhưng Đờn ca Tài tử vẫn không ngừng cải biến để ngày càng hay và hấp dẫn hơn nhằm đáp ứng thị hiếu thẩm mỹ ngày càng cao của khán giả trong nước và quốc tế. Trong tương lai, Đờn ca Tài tử hứa hẹn sẽ có những bước tiến xa hơn nếu nó luôn nhận được sự yêu mến của khán thính giả và ý thức bảo vệ giữ gìn để nó không trở thành tạp nham, lai căng. Đờn ca Tài tử tự hào khi trở thành đặc trưng của dân tộc Việt Nam nói chung và miền sông nước Nam Bộ nói riêng.

[1] Mai Mỹ Duyên (2007), Đờn ca tài tử trong đời sống văn hóa cư dân Tây Nam Bộ, Luận án Tiến sỹ Văn hóa học, Viện Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr 100.
[2] Viện văn hóa nghệ thuật TP Hồ Chí Minh (1993), Thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền thống một số dân tộc miền Nam Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, tr 42.
[7] Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đỗ Hương, Cao Tự Thanh chủ biên (2007), Sân khấu cải lương ở Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh: Văn hóa Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh, tr 86.

N.H

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

SÁNG TÁC : TÌNH SÔNG


Tình sông
Nguyên Hậu

Phù sa có được từ đâu?
Nước mang thương nhớ giải sầu cho sông
Lấp đầy bao hạt nhớ mong
Nước đi sông giữ bên lòng niềm đau…

Lần đầu gặp sông
Nước đâu hò hẹn
Sông vui vẻ mời
Mở lòng đón nước
Ôm ấp trong lòng
Những giọt đời trong

Từ khi có nước
Sông bỗng đẹp xinh
Những đêm trăng rằm
Nghiêng mình sông thở
Vương hình suối tóc
Yên ả dòng xanh

Năm tháng dần trôi
Bao mùa nước nổi
Sông nước tràn đầy
Đến hẹn lại lên
Cho đời no ấm
Bao nhịp đời vui

Nhưng bỗng một hôm
Chắn ngang dòng nước
Chiếc đập vô tình
Chia rẻ tình sông
Nước lớn không về
Trơ mình – sông khóc

Một sớm bình yên
Sông khẽ bàng hoàng
Thấy sao nằng nặng
Nơi đáy dòng trong
Đứa trẻ lọt lòng
Phù sa óng ánh

Không còn gặp nước
Sông cũng lặng đi
Nghĩa nặng tình đầy
Phù sa khát cháy
Không có nước sông trơ lòng chờ đợi
Nước mãi không về sông lắng đọng niềm đau…
N.H

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2011

SÁNG TÁC : GIỌT TÌNH


Giọt tình
Nguyên Hậu

Anh ơi nghe gì không?
Giọt đàn đang rơi xuống
Như kỷ niệm chúng mình
Nồng nàn nhưng dịu vợi
Tưởng như đã trôi xa
Phút bỗng về êm ả

Em yêu giây phút ấy
Chung lối bước em – anh
Cánh phượng nào đỏ thắm
Nhỏ máu xuống tim ta

Giờ còn đâu anh hỡi
Yêu dấu đã trôi xa
Tiếng đàn xưa dìu dặt
Gieo nỗi nhớ trong nhau…
N.H

Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011

SÁNG TÁC : TÌM VỀ KÝ ỨC


Tìm về ký ức
Nguyên Hậu
Em đã yêu từ khi nào anh nhỉ?
Em không trả lời được câu hỏi của lòng em
Em chỉ biết trong một chiều lơi lả
Anh gởi về ánh mắt yêu thương

Cầm tay nhau sao không nói lời nào
Chỉ chờ đợi trái tim nồng thổn thức
Anh cho em một tình yêu rất lạ
Lo thật nhiều mà chẳng nói lý do



Và em yêu anh bằng tình yêu rất thật
Yêu anh từ ánh mắt đến bờ môi
Yêu không gian buổi nào mình hẹn gặp
Yêu nụ cười, yêu cả … lỗi lầm anh!

Vậy mà sao ta lại đành xa cách
Không hẹn nhau mà cũng chẳng biệt ly
Hai tâm hồn, hai ngả đường cách biệt
Không bao giờ có lối để giao nhau

Anh ơi anh em đã khổ đau nhiều
Trong những lần nhớ anh buồn tê tái
Em chỉ biết nhìn anh trong tấm ảnh
Của một người đang ở rất xa xăm

Bao lâu rồi? Bao nhiêu ngày cách biệt?
Mà tình em sao vẫn cứ đong đầy
Và nỗi nhớ cứ trào dâng sông bể
Bóng đêm về em chết lặng cô đơn…

N.H

Chủ Nhật, 21 tháng 8, 2011

SÁNG TÁC : NHỚ NGƯỜI


Nhớ người
Nguyên Hậu

Yêu rồi mới thấy hiểu bao nhiêu
Mấy cuộc tình nhân đã trải nhiều
Em yêu nên thấy đời tươi mới
Như lúc tình ta thắm thiết mời

Chiều nay không giống như chiều xưa
Không gió không sương chỉ có buồn
Em yêu nên thấy còn như vẹn
Sóng mắt yêu thương chạm đáy lòng




Ngoài sân còn đó những hàng cây
Chỉ vắng mình anh em vẫn đây
Lặng theo mơ tưởng ngày yêu cũ
Sao chỉ mình anh chẳng nói gì!

N.H

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2011

SÁNG TÁC : LẺ BƯỚC


Lẻ bước
Nguyên Hậu


Không có anh đường về buồn đến lạ
Con đường quen giờ lại hóa xa xăm
Người lại qua không còn chút vị nồng
Cả phố dài chỉ mình em độc bước

Đường xa lắm anh ơi đường xa lắm
Lòng em giờ sao lại quá cô đơn
Cơn gió nào không buồn thổi qua tay
Góc phố chiều không còn người rộn rã

Em sợ lắm anh ơi em sợ lắm
Cơn mưa chiều lạnh thấu tận hồn em
Ánh đèn kia không còn màu rực rỡ
Khoảng trời buồn xé nát trái tim em

Anh ơi anh, xin đừng xa anh nhé
Để đường về chung lối hẹn đôi ta
Để cô đơn không còn len khe khẽ
Qua cõi hồn cô lẻ của em đây…

Chiều mưa hạ …
N.H

DANH NGÔN CUỘC SỐNG


     Nguyên Hậu (sưu tầm)
    
  •           Chúng ta có thể né tránh tất cả các biến cố xảy đến, nhưng thường thì tác động của chúng lên chúng ta cũng chẳng thể kéo dài mãi. Thời gian sẽ hàn gắn mọi vết thương. Không phải những nỗi thất vọng của bạn chẳng đáng bận tâm, nhưng nỗi buồn rồi sẽ qua và cuộc đời sẽ dẫn bạn đến những nẻo đường mới, đến những hướng mà mình từng ước mơ. Hãy tự cho mình thời gian để sống với chính mình vì chính bạn cảm nhận được điều gì cần thiết cho chính bạn hơn bất kỳ ai khác.
  •         Trong bất kỳ tình huống nào hãy đừng đánh mất sự tự tin. Nếu không có niềm tin vào chính bản thân mình bạn sẽ không làm được gì cả. Cuộc sống chỉ bế tắc thật sự nơi sự tự tin không còn nữa.
  •        Hãy tìm cách học hỏi và cố gắng thích nghi với những điều mới mẻ, dũng cảm đi tìm những giá trị mới, mục đích sống cao hơn trong từng giai đoạn của cuộc đời. Nếu tự đóng khung mình trong khuôn khổ những gì bạn đã biết hoặc những điều đã từng làm bạn thoải mái trước kia, bạn sẽ ngày càng thất vọng với mọi thứ xung quanh khi ngày càng có tuổi…

Tháng 8.2011
N.H

ĐỜN CA TÀI TỬ NAM BỘ: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN


Bài 3:  Đặc điểm của Đờn ca Tài tử
Phạm Ngà
1.   Tính ngẫu hứng
Một buổi  Đờn ca Tài tử ở Nam bộ
Đờn ca Tài tử thật sự là những cuộc chơi tao nhã của giới bình dân, của những tâm hồn phong lưu tìm bạn tri âm qua lời ca tiếng nhạc. Người chơi Tài tử chính thống khi ngẫu hứng sẽ đờn, còn không hứng thì thôi, không ai có thể mua được tiếng đờn của họ. Trong cuộc chơi, họ so tài cao thấp trong từng ngón đờn, sự nhịp nhàng, bài bản, giọng ca... Và sau mỗi cuộc chơi, mỗi người, mỗi nhóm trao đổi ý kiến, học hỏi thêm để tay đờn thêm chắc, giọng hát thêm hay. Người ta có thể chơi Đờn ca Tài tử mọi lúc mọi nơi: trong đám hội, lúc nông nhàn, khi rảnh rỗi, ngoài bờ đê, cạnh bờ sông hay là khi thả thuyền trên sông. Có khi đang làm việc ngoài đồng, thấy có nhóm đàn ca, liền bỏ cuốc bỏ cày vào chung vui với mọi người quên cả công việc. Không ai quy định một cuộc chơi Tài tử phải có số lượng bao nhiêu và thời gian bao lâu. Bất cứ ai biết đàn, biết ca có thể tham gia cuộc chơi đầy ngẫu hứng này. Cuộc so tài càng cao, càng hấp dẫn thì người xem càng cổ vũ nồng nhiệt. Một cuộc chơi Tài tử ít nhất cũng vài tiếng đồng hồ, có khi kéo tới 2 - 3 ngày. Ai đờn mệt, ca mệt thì ra nghỉ, người khác vào chơi thay, xong thì lại vào chơi tiếp, chơi tới hết người thì thôi. Vì tính tài tử đó mà Đờn ca Tài tử dễ bị hiểu lầm là bình dân, không chuyên nghiệp.
Mặc dù bắt nguồn từ Nhã nhạc cung đình Huế nhưng dàn nhạc Tài tử không bị ràng buộc, gò bó vào những định chuẩn về chủng loại, số lượng nhạc khí, hay về thể thức và trình tự diễn tấu cũng như chưa có quy định cụ thể nào về biên chế một dàn nhạc Tài tử ổn định. Đờn ca Tài tử Nam Bộ có khi đờn một mình (độc chiếc), độc tấu đờn kìm, đờn tranh. Nhưng thường thì ít nhất có hai cây đờn khác nhau về âm sắc cùng hòa với nhau. Thường thấy nhất là song tấu đờn kìm và đờn tranh - là sự kết hợp giữa tiếng tơ và tiếng sắt - mà giới chuyên môn gọi là “sắt cầm hảo hiệp”, hoặc song tấu đờn tranh và đờn cò. Tam tấu với ba cây: đờn kìm - đờn tranh - đờn cò; đờn kìm - đờn tranh - độc huyền cầm; còn đờn tranh - đờn cò - độc huyền cầm với từ chuyên môn là tam chi liên hoàn pháp. Đờn kìm, đờn tranh và đờn cò có ba sắc thái và màu âm khác nhau, hòa cùng nhau sẽ tạo thành tiếng nhạc tam tấu nghe rất êm tai, dễ chịu. Năm cây: đờn kìm, đờn tranh, đờn cò, độc huyền cầm và ống tiêu hòa với nhau thì gọi là ngũ tuyệt.
Một điểm đặc biệt của nhạc tài tử là lối đàn ngẫu hứng - tương tự lối chơi ngẫu hứng trong nhạc jazz của phương Tây. Cũng cùng một lòng bản, nhưng mỗi nhạc khí có kĩ thuật biểu diễn khác nhau và tạo nên nét đặc trưng độc đáo với một số kĩ thuật như: rung, nhấn, luyến, láy, vuốt, mổ... và kĩ thuật về âm hình, tiết tấu. Dựa trên bài bản truyền thống của nhạc Tài tử, kết hợp với sự vận dụng nhuần nhuyễn các kĩ thuật, người nghệ sĩ sẽ sáng tạo ra một bài nhạc mới, tức thời, biến hóa tiết tấu, thay đổi cường độ, tạo chỗ ngưng nghỉ để cho ra một bè đàn có tính cách riêng, nhưng đồng thời phải hòa hợp với những nghệ sĩ cùng diễn khác. Lối hòa đàn như vậy của Đờn ca Tài tử được các nhà nghiên cứu âm nhạc Việt Nam gọi là lối “hòa tấu biến hóa lòng bản”. Chính vì thế mà mỗi lần nghe lại cùng bản đàn, khán thính giả luôn luôn thấy mới lạ và hài hòa.
Có lẽ phần ngẫu hứng nhất trong nhạc Tài tử là phần rao của người đờn hoặc nói lối của người ca trước khi vào bản đờn chính. Câu rao là câu nhạc khởi đầu, rất ngẫu hứng của người chơi đờn dùng để thử dây đồng thời thử đờn. Rao để lên dây đờn cũng là lúc nghe thử cây đàn có phím nào lệch hay dây đàn cứng quá hoặc mềm quá không, để lúc biểu diễn tiếng nhạc được hoàn chỉnh hơn. Câu rao không có nhịp phách cố định, không có lòng bản như bản đờn, người chơi câu rao chỉ cần theo đúng điệu thức đã chọn lựa mà sáng tác. Câu rao sẽ gợi cảm hứng cho bạn diễn, tạo không khí cho dàn tấu, và chuẩn bị hình tượng âm nhạc cho người thưởng thức khi dẫn thính giả đi lần vào điệu thức, vào hơi để nghe bản đàn.
Theo GS.TS Trần Văn Khê thì:
            Câu rao chẳng những tạo một bầu không khí phù hợp với bản đờn, vui tươi cho bản Bắc, nghiêm trang cho bản Nhạc, êm ả cho bản Xuân, buồn dịu cho bản Ai, mà còn là một dịp để nhạc công thử dây đờn như người chơi kỵ mã thử ngựa, và lúc đó người nhạc công có thể phô tài của mình hay tuỳ hứng sáng tác những khúc mới lạ ([1]).
Ngoài ra, khi trình tấu, các nghệ sĩ cũng có thể dùng tiếng đàn của mình để “đối đáp”, “thách thức” bạn cùng diễn. Chính vì vậy mà nhạc Tài tử luôn luôn sinh động và hấp dẫn người nghe. Câu rao theo truyền thống Nam Bộ phóng túng và đầy ngẫu hứng. Mỗi người thầy có một cách rao, lúc đầu người học đàn theo cách của thầy, nhưng khi đạt đến mức nghệ thuật khá cao thì người nghệ sĩ được phép sáng tạo những câu rao của riêng mình.
Chất tài tử và chất nghệ sĩ luôn quyện vào nhau ở người đờn, người ca. Họ chơi đờn ca Tài tử với đầy tính ngẫu hứng nhưng vẫn tuân theo phương thức ngẫu hứng trên lòng bản. Chính ngẫu hứng đã tạo nên hơi thở cho Đờn ca Tài tử để những cuộc chơi của người nghệ sĩ cứ tiếp nối từ đời này sang đời khác.
GS.TS Yamaguti (Nhật Bản) - người đã giới thiệu nghệ thuật Nhã nhạc cung đình Huế với công chúng Nhật Bản và UNESCO, từng nhận định rằng:
               Những dạng trình diễn âm nhạc mang tính ngẫu hứng không chỉ có ở Việt Nam mà có thể bắt gặp ở nhiều quốc gia khác, trong truyền thống âm nhạc châu Phi cũng như âm nhạc đương đại và những loại hình âm nhạc đại chúng như rock, blue, jazz... Tuy nhiên số lượng các loại hình âm nhạc cổ truyền, được truyền lại qua nhiều thế hệ như nghệ thuật Đờn ca tài tử ở Nam Bộ thì không nhiều ([2]).
 Ngẫu hứng là đặc điểm nổi bật và được xem như một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của một buổi chơi Đờn ca Tài tử ở Nam Bộ.

2.  Tính bác học
- Tư tưởng Khổng - Mạnh:
Như trên đã tìm hiểu, Đờn ca Tài tử bắt nguồn từ Ca Huế. Vì phục vụ cho tầng lớp thượng lưu, cao quý nên những nhà viết nhạc thường là nhà Nho trí thức. Họ mang tư tưởng của Khổng - Mạnh “Quân xử thần tử/ Thần bất tử bất trung. Phụ xử tử vong/ Tử bất vong bất hiếu” nên nội dung chủ yếu thể hiện sự yêu mến, ngưỡng vọng và lòng trung thành đối với Quân - Sư - Phụ. Khi những nhà Nho ấy theo phong trào Cần Vương vào Nam đã mang theo loại nhạc này. Nó được biến đổi về ca từ, giai điệu để phù hợp với ngôn ngữ và phong tục tập quán của người dân Nam Bộ nơi đây, tiêu biểu là trưởng nhóm miền Đông, ông Ba Đợi và trưởng nhóm miền Tây, ông Nhạc Khị. Hai ông dựa trên nền nhạc sẵn có để đặt lời ca tương ứng. Các ông tổ chức giảng dạy, truyền bá nhạc Tài tử khắp nơi, nhiều người theo học và nối nghiệp thầy. Thế hệ sau này có ông Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) sinh năm 1892, mất 1976, là người sớm bộc lộ tài năng, biết nhiều chữ nghĩa, ông sáng tác bài Dạ cổ hoài lang (đêm nghe tiếng trống nhớ chồng) là bản tiền thân của Vọng cổ ngày nay. Với lực lượng sáng tác đông đảo có trình độ cao, nhiều bản nhạc Tài tử đã ra đời với một hệ thống chặt chẽ gồm những bài bản lớn như: Nam, Oán, Ngự.
-   Nam có 3 bài: Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung).
-   Oán có 4 bản nội và cũng là 4 bản chính: Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng Lai Nghi, Giang Nam Cửu Khúc, Phụng Cầu Hoàng Duyên. Sau này có thêm 4 bản Oán ngoại: Bình Sa Lạc Nhạn, Than Dạ Đề Quyên, Ngươn Tiêu Hội Oán Và Võ Văn Hội Oán.
-   Ngự có 8 bài:
·  Bát Man tấn cống: Tám tộc man di vào chầu thiên tử. Thể hiện niềm hân hoan chào đón nhà vua.
·  Đường Thái Tôn: Tôn vua Thành Thái như vua Đường Thái Tôn ở Trung Quốc được thần dân kính yêu, mến phục.
·  Vọng phu: Trông chờ được diện kiến vua như người vợ khắc khoải mong chờ chồng.
·  Chiêu Quân: Lòng dân miền Nam như nàng Chiêu Quân, tuy đem thân cống Hồ nhưng vẫn một lòng với cố quốc.
·  Ái tử kê: Xin vua xem xét thương người miền Nam như gà mẹ thương đàn con nhỏ.
·  Tương tư: Vì hoàn cảnh phải xa cách nên tâm trạng nhớ thương vua như thương nhớ người yêu.
·  Duyên kì ngộ: Bất ngờ gặp vua như mối duyên diệu kì.
·  Quả phụ hàm oan: Miền Nam bị tiếng theo Pháp, nỗi oan này như
người thiếu phụ hàm oan với chồng.
Các ông cũng cải biên những bài Ca Huế sang những bài nhạc Tài tử như: bài Bình Bán của Ca Huế được phát triển thành Bình Bán Vắn, Lưu Thủy Huế thành Lưu Thủy Đoản, Kim Tiền Huế thành Kim Tiền Bản, Phú Lục Huế thành Phú Lục Chấn, Bình Bán Huế thành Bình Bán Chấn … tất cả đều mang tên tiếng Hán.
-   Triết lý âm dương – ngũ hành:
Tính bác học của Đờn ca Tài tử còn thể hiện ở việc nó tương ứng với âm dương – ngũ hành. Nếu ngũ hành là: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ thì Đờn ca Tài tử cũng có năm cung bậc tương ứng từ cao đến thấp là: Hò - Xự - Xang – Xê - Cống. Ta có tam tài: Thiên - Địa – Nhân thì Đờn ca Tài tử có 3 Nam: Nam ai (Nhân), Nam xuân (Thiên), Nam đảo (Địa). Tứ tượng (bốn mùa) tương ứng với 4 Oán. Về âm – dương, trong Đờn ca Tài tử cũng có nhịp nội nhịp ngoại đối nhau. Nhịp nội ứng với dương (+) còn nhịp ngoại ứng với âm (-), cụ thể là trong các bài Bắc, Nam. Tác giả Đỗ Dũng trong quyển “Sân khấu Cải lương Nam Bộ 1918 – 2000” có nhận định:
Theo triết học phương Đông: nhật (dương), nguyệt (âm) tức là trời đất sinh ra ngũ hành và ngũ hành biến hóa thành vạn vật. Còn nhạc Tài tử có nhịp ngoại - nội, lấy ngũ cung làm nền tảng để rồi “thiên biến vạn hóa” ra biết bao chữ nhạc trong các bài bản. Tính triết lý của nhạc Tài tử cơ bản là ở chỗ đó ([3]).
Hay trong quyển “Âm nhạc Cải lương tính năng, giai điệu” tác giả có nói thêm: “Từ năm cung biến hóa ra muôn vạn âm sắc, có hơn 200 giai điệu trong âm nhạc Cải lương, mà trong các giai điệu chỉ quy về năm đầu mối chính([4]).
Có thể nói, Đờn ca Tài tử đã vận dụng rất tinh tế triết lý âm - dương vào những sáng tác của mình làm cho tiếng đờn, lời ca như hòa cùng với đất trời.
-   Tính mô phạm (văn hóa tâm linh):
Đờn ca Tài tử là một phong trào, không mang tính chuyên nghiệp mà mang tính tự phát và tự giác. Họ có hứng thì chơi, không thì thôi không ai bắt ép được họ. Những lúc rảnh rỗi, họ họp nhau lại cùng đờn cùng ca. Có khi đang đi công việc, thấy đờn ca vui quá liền ghé vào ngồi tới tối rồi về quên cả công chuyện đang làm. Thậm chí có người mê quá còn bỏ nhà cửa đi theo các gánh hát. Đờn ca Tài tử có trường phái nhưng không có trường lớp. Việc truyền đạt không theo trường lớp chính quy mà theo kiểu truyền nghề truyền thống “cầm tay chỉ việc”. Nó mang tính chất tâm linh là cảm xúc từ con tim, đưa vào lý trí (bộ óc) để cảm nhận. Nói như vậy là bởi vì có người không biết gì về nhạc lý hay các bài bản, thậm chí có người còn không biết chữ nhưng chỉ cần nghe qua họ có thể thuộc làu làu, đàn hay hát hay.
-   Tính thính phòng:
Đờn ca Tài tử mang tính bác học, sang trọng không khác gì nhạc phương Tây. Nếu nhạc quãng 8 có Đồ - Rê - Mi - Pha - Son - La - Si với những nốt trầm bổng thì Đờn ca Tài tử cũng có 5 cung Hò - Xự - Xang - Xê - Cống với những âm vực cao thấp thể hiện đủ mọi cung bậc cảm xúc: hỉ - nộ - ái - ố - bi - hài… Nhạc Tài tử còn giống nhạc giao hưởng ở chỗ là nó cũng có những chương, hồi, có cao trào và thoái trào, có cấu trúc chặt chẽ về thang âm, điệu thức.
-   Văn chương bác học:
Do tiếp xúc nhiều với sách vở của Tàu, nên các tác giả đưa nhiều điển cố, điển tích hay những nhân vật nổi tiếng của Tàu vào tác phẩm của mình. Như bài ca: Tô Huệ chức cẩm Hồi Văn (điệu: Nam Xuân - Nam Ai) dựa vào điển tích: Tô Huệ - người đời nhà Trần (Trung Quốc) quê ở Thị Bình, còn tên là Nhược Lan. Nàng có tài văn chương, do nhà nghèo nên về làm vợ thứ Đậu Thao. Ít lâu sau, Đậu Thao lấy thêm hầu thiếp, không mặn nồng với nàng. Sau đó, Đậu Thao vâng lệnh vua đi thú ngoài biên ải. Nàng Tô Huệ làm bài thơ Hồi văn rồi dệt vào gấm, dâng lên vua xin tha cho chồng về. Vua xem xong khen tặng bài thơ của nàng và xúc động nên truyền lệnh cho Đậu Thao trở về.
Hay bài ca: Bá Lý Hề (soạn lời: Trần Quang Quờn, điệu: Tứ Đại Oán) dựa vào điển tích: Bá Lý Hề người nước Ngu (Trung Quốc) tên là Tỉnh Bá, ba mươi tuổi mới cưới Đỗ Thị làm vợ. Tỉnh Bá học giỏi, có tài, vâng lệnh đi sứ bị bắt giữ lại cho chăn trâu. Trần Mục Công biết mới chuộc Tỉnh Bá về bằng năm bộ da dê. Đỗ Thị ở nhà chờ đợi mòn mỏi, bồng con đi tìm chồng. Khi Bá Lý Hề làm thừa tướng cho nước Tần, Đỗ Thị dò xét biết được, nhân dịp trong Tướng phủ đang tìm người may vá liền xin vào ở may. Nhân dịp tiệc tùng có ca hát, Đỗ Thị nài nỉ nhạc công cho lên nhà khách ca giúp. Khi Bá Lý Hề nghe Đỗ Thị mượn lời ca để kể lại mối tình vợ chồng khi xưa, liền nhận ra người vợ thủy chung, hai người cùng ôm nhau khóc với bao nỗi mừng vui sum họp.
Các tác tác giả cũng hay nhắc đến tích truyện Tư Mã Tương Như với tiếng đàn của mình ca khúc Phượng Cầu Hoàng (chim phượng trống tìm chim phượng mái) đã làm Trác Văn Quân mê mẩn và từ đó nên duyên cầm sắt.
Phần ngâm của Đờn ca Tài tử: có những bản ngâm riêng biệt, ngũ ngôn, bát cú, tứ cú, song thất hay thượng hạ lục bát (Năm Hưng). Đó đều là những thể thơ bác học.
Tính bác học còn thể hiện ở đề tài, chủ đề của những bài đờn ca Tài tử. Lấy đề tài từ những sự kiện lịch sử như: cuộc khởi nghĩa của hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị đánh quân Hán hay sự kiện về một cô gái dũng cảm trong cuộc khởi nghĩa Đồng Khởi, có khi nhắc lại các triều đại Phong kiến xưa. Nội dung của các bài nhạc Tài tử này là ca ngợi quê hương, đất nước, thể hiện niềm tự hào dân tộc. Vì thế cho nên lời ca, tiếng hát mang âm điệu hào sảng, hùng tráng như một lời khẳng định mạnh mẽ khí phách anh hùng của nhân dân cả nước nói chung và của Nam Bộ nói riêng.
Tính bác học còn thể hiện rõ trong hệ thống bài bản của Đờn ca Tài tử bao gồm 20 bài bản tổ: 6 Bắc, 3 Nam, 4 Oán, 7 Nhạc (Lễ). Do nguồn gốc xuất phát và được nuôi dưỡng, gây dựng bởi những bậc trí thức Nho học kì tài vì thế mà vào thời sơ khai của Đờn ca Tài tử trải dài suốt triều Nguyễn cho đến đầu thế kỉ XX, nó luôn là thú vui chơi của tầng lớp quý tộc. Các nhóm Đờn ca Tài tử tiếng tăm như ban của ông Tư Triều và Hai Triều ở Mỹ Tho, Tiền Giang thường được giới quý tộc săn đón, mời mọc biểu diễn.

3.  Tính dân gian
- Về hình thức:
Đờn ca Tài tử sau những buổi lao động mệt nhọc
Người ta chơi Đờn ca Tài tử không phải trong những căn phòng sang trọng hay trong những phòng thu hiện đại mà có thể là bất cứ nơi đâu như trên bờ, dưới nước hay dưới gốc cây. Không ăn mặc chải chuốt mà bình dị như trong sinh hoạt hằng ngày. Đờn ca Tài tử xuất phát từ trong dân gian nên nó mang đậm tính bình dân, giản dị của cuộc sống nông nghiệp. Con đường phát triển của nó cũng khá đơn giản, không cần trường lớp, chỉ cần nghe ca rồi thuộc, nghe đàn rồi đàn theo. Theo tác giả Đỗ Dũng: “…ca ngâm thì bằng phương tiện truyền khẩu là chính, mà tính truyền khẩu là đặc trưng của dân gian” ([5]). Vậy mà Đờn ca Tài tử đã tồn tại và phát triển hơn 100 năm qua với biết bao biến cố của lịch sử.
-   Về nội dung:
Bất kì nền văn học - nghệ thuật nào đều phát triển dựa trên dòng suối mát lành của văn học dân gian. Khi Ca Huế từ Huế vào nó đã gặp một môi trường rất phong phú, đa dạng của dân ca Nam Bộ. Sự gặp gỡ và kết hợp ấy cùng sự sáng tạo của các nghệ nhân đã tạo nên đờn ca Tài tử ngày hôm nay. Có thể nói văn học dân gian là cái nôi vững chắc nhất, là tiền đề cơ bản nhất để phát triển Đờn ca Tài tử.
-   Hò: là những câu hát lúc nghỉ ngơi sau những giờ làm việc mệt mỏi. Hò ở miền Nam mang đậm sắc thái riêng, nổi bật nhất là Hò chèo ghe, vì địa hình nhiều sông ngòi, kênh rạch. Ở mỗi địa phương đều có những giọng hò mang tên địa phương mình: Hò Bến Tre, Hò Hậu Giang, Hò Đồng Tháp…
-   Lý có rất nhiều bài, vừa kế thừa truyền thống vừa có sự sáng tạo. Như từ Lý Ngựa Ô Thừa Thiên thành Lý ngựa ô Nam Bộ, sau đó là Lý ngựa ô Bắc, Lý ngựa ô Nam trên sân khấu Cải lương. Có các điệu Lý như: Lý chuồn chuồn, Lý con khỉ đột, Lý dĩa bánh bò, Lý che hường
-   Hát: khi nghỉ ngơi hay lúc bận rộn ngoài đồng, họ cũng hát lên vài câu nghe cho vui tai. Ở miền Nam có: hát hò khoan, hát đối, hát ru em, hát giã gạo…
Nội dung của dân ca Nam Bộ thường là nói về tình yêu nam nữ, mang tính trữ tình nhưng không bi lụy mà ngược lại nó dí dỏm, vui tươi và hài hước. Điều này làm tăng thêm niềm vui trong cuộc sống của những người dân Nam Bộ.
Đờn ca Tài tử đã sử dụng những chất liệu của dân ca Nam Bộ để tạo nên tính bình dân, giản dị. Trong bài Vọng cổ Tình anh bán chiếu của soạn giả Viễn Châu đã mở đầu bằng câu hò:
Hò ơ... Chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm. Công tôi cực lắm, mưa nắng dãi dầu. Chiếu này tôi chẳng bán đâu. Tìm em không gặp... Hò ơ... Tìm em không gặp tôi gối đầu mỗi đêm...
Hay bài Nhớ mẹ cũng của Viễn Châu có câu:
Hò ơi…
Lòng con thảo như giọt sương hạt bụi
Công mẫu từ như ngọn núi thái sơn
Không cha không mẹ…
Hò ơi…
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.
Theo các nhà nghiên cứu Năm Hưng, Trần Hữu Trang và Trương Bỉnh Tòng thì có sáu loại Lý: Lý vọng phu, Lý giao duyên, Lý con sáo hay là Lý ngựa ô Nam hay là Lý ngựa ô Bắc, Lý Phước Kiến, Lý thập tình, Lý Huế. Riêng ở Nam Bộ, số điệu Lý rất lớn phải kể đến hàng trăm, các bài lý tuy ngắn nhưng lại là một hoàn chỉnh về lời ca giai điệu và tiết tấu. Lý được đưa vào đờn ca Tài tử rất nhiều, đặc biệt là trong những bản Vọng cổ.
Các bài lý được sử dụng thường là những bài mang âm hưởng buồn, nói lên sự sầu tư, mong nhớ quê nhà và những người thân yêu ngoài chiến trận. Nhà âm nhạc học Gaston Knops thấy rằng, trong vài điệu nhạc miền Nam cái trạng thái bị đè ép mà nhân dân Việt phải chịu, và trong trạng thái bị trị ấy chỉ có một phương tiện để giãi bày tâm hồn mình: đó là âm nhạc. Ông thấy trong những tiếng than ấy những tình cảm của người Việt, những nỗi vui thì ít mà những nỗi buồn thì nhiều. Cho nên những điệu hát ấy thường làm nhỏ những giọt lệ mà người nghe đã phải nuốt tự đời nào.
Thể thơ truyền thống của dân tộc ta: lục bát, song thất lục bát… được sử dụng với một tần số cao trong phần Ngâm của bài ca Tài tử. Trong bài Nỗi niềm riêng của Minh Lời có cả lục bát:
Nhà tôi ở cạnh nhà nàng
Cách con rạch nhỏ cách hàng dừa tơ
Tôi thường để ý thầm mơ
Thầm mong duyên thắm, đón chờ trúc mai.
Và song thất lục bát:
Ba tháng đầu thơ đi thơ lại
Sáu tháng sau trông mãi tin nàng
Để lòng tôi phải miên man
Băn khoăn trăn trở hỡi nàng có hay.
Các thể thơ của văn học thành văn cầu kì, gọt giũa bao nhiêu thì thể thơ dân tộc lại bình dị, dân dã bấy nhiêu nhưng không kém phần sâu lắng, thi vị, bởi chất chứa bên trong những giai điệu nhẹ nhàng ấy là cả một nỗi niềm thổn thức khôn nguôi của kiếp nhân sinh.
Bên cạnh đó, những người viết nhạc Tài tử còn lấy đề tài từ các giai thoại, sự tích, truyền thuyết. Đó là giai thoại về Ông già Ba Tri, sự tích về ông Táo, bà Táo, hay câu chuyện thần thoại về Ngưu Lang - Chức Nữ… Tất cả đều được khai thác và đưa vào bài nhạc Tài tử một cách tài tình. Giọng hát, lời ca bây giờ không còn là giọng hào sảng, hùng dũng nữa mà ở một âm vực trầm, thấp như những lời thủ thỉ, tâm sự. Nội dung không mang tính thời sự, không bàn những vấn đề lớn lao của lịch sử mà chỉ là những vấn đề xoay quanh cuộc sống lao động hằng ngày với những khó khăn, vất vả nhưng đầy thi vị.
Vì đa số là những sáng tác ngẫu hứng khi có tâm trạng nên lời ca không có sự trau chuốt, gọt giũa mà mộc mạc, đơn sơ. Nhờ đặc tính dân dã này mà đờn ca Tài tử được rất nhiều người yêu thích đặc biệt là tầng lớp công - nông - binh, họ truyền nhau những bài ca ấy và thuộc nằm lòng để rồi những khi nông nhàn, rảnh rỗi họ quây quần lại đàn hát cho nhau nghe một cách say sưa, vui vẻ. Xét riêng về Vọng cổ, GS.TS Trần Văn Khê đã có nhận xét rất thích đáng:
Chân phương hoa lá trong bài Vọng cổ đã được áp dụng một cách thần tình. Hoa chẳng những đẹp mà còn thơm. Lá chẳng những xanh mà còn tươi. Thành ra bản Vọng cổ có cái tươi mát, cái đẹp đẽ, có cái phong phú, cái dồi dào mà sức sống, sức đóng góp của tất cả những người nghệ sĩ, từ đứa con của bác sáu lầu sáng tạo, nuôi dưỡng cho nó lớn lên mạnh mẽ, nó đẹp đẽ ([6]).
Việc phân biệt rõ tính bác học và tính bình dân trong lời ca để mọi người có cái nhìn tổng quan hơn, nắm được rõ hơn đặc trưng cơ bản ấy của nhạc Tài tử. Trên thực tế, tính bác học và tính bình dân của đờn ca Tài tử không tách biệt nhau mà liên kết với nhau một cách chặt chẽ trong một bài nhạc. Các nhà Nho xưa khi viết lời ca cũng biết vận dụng ca dao, tục ngữ và thể thơ truyền thống vào tác phẩm của mình. Hay những người nông dân Nam Bộ, ngoài việc lấy chất liệu sẵn có từ dân gian như: hò, vè, lý, hát, nói… thì họ cũng sử dụng các tuồng tích xưa vào bài ca. Chính điều đó làm cho đờn ca Tài tử vừa bình dân, vừa cao cấp, vừa gần gũi, vừa thâm sâu. Lời ca quyện chặt tiếng đàn, tiếng nâng đỡ lời ca mang theo tâm hồn của người nghệ sĩ hòa cùng tâm trạng, cảm xúc của người nghe. Việc làm sáng rõ những đặc điểm nổi bật của Đờn ca Tài tử cũng giúp ta tìm ra mối quan hệ lâu đời giữa Đờn ca Tài tử với văn học dân gian và văn hóa dân tộc.


[1] Đặng Hoành Loan (2010), Đờn ca tài tử - âm nhạc “cổ truyền muộn” của cư dân Nam Bộ, nguồn:
//vnmusic.com.vn/p349-don-ca-tai-tu-%C2%A0am-nhac-co-truyen-muon%C2%A0-cua-cu-dan-nam-bo-phan-1.html
[2] Minh An (2011), Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ - Triển vọng vinh danh,
nguồn: http://www.sggp.org.vn/vanhoavannghe/2011/1/248256/
[3] Đỗ Dũng (2003), Sân khấu Cải lương 1918 – 2000, Nxb Trẻ, tr 21 – 22.
[4] Đỗ Dũng (2007), Âm nhạc Cải lương tính năng, giai điệu, Nxb Sân khấu Hà Nội, tr27.
[5] Đỗ Dũng (2007), Âm nhạc Cải lương tính năng, giai điệu, Sđd.
[6] Trần Quang Hải (2009), Đờn ca Tài tử ở Nam Bộ, nguồn: http://www.tranquanghai.info/p2605-don-ca-tai-tu-o-nam-bo.html

Tháng 8.2011
N.H
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...